Tên
tự gọi: Cor, Col.
Tên
gọi khác: Cua, Trầu.
Dân số: 33.817 người (theo kết quả điều tra dân số năm 2009 của Tổng cục thống kê)
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ
hệ Nam Á), tương đối gần gũi các dân tộc khác trong vùng bắc Tây Nguyên và lân
cận như: Hrê, Xơ Ðăng, Ba Na... Chữ viết ra đời từ thời kỳ trước năm 1975 trên
cơ sở dùng chữ cái La-tinh. Hiện nay chữ viết này không không phổ biến nữa.
Lịch sử: Người Co cư trú rất lâu đời ở tây
bắc tỉnh Quảng Ngãi và tây nam tỉnh Quảng Nam.
Hoạt động sản xuất: Kinh tế rẫy là nguồn sống chủ
yếu, lúa rẫy là nguồn lương thực chính. Canh tác theo hình thức phát rừng, đốt,
chọc lỗ tra hạt giống, tuốt lúa bằng tay. Kỹ thuật xen canh - đa canh trên từng
đám rẫy và luân canh giữa các đám rẫy. Trầu không và quế của người Co nổi tiếng
lâu đời. Ðặc biệt quế quý và nhiều là một nguồn lợi lớn: quế rừng và quế trồng.
Rẫy quế của mỗi gia đình là loại tài sản quan trọng, thường 10 năm trở lên mới
được thu hoạch. Nhờ bán quế, các gia đình có tiền mua sắm các gia sản được ưa
chuộng (cồng, chiêng, ché, trâu, v.v... và nay thì xe, đài, đồng hồ, xây nhà,
đóng đồ gỗ), đồng thời cũng chi dùng vào việc ăn uống, mặc, v.v... Hình thức
dùng vật đổi vật được ưa thích.
Trước đây người Co cũng dựng nhà mồ cho
người chết. Ngày nay phần mộ chỉ được rào kín, phía trên che một chiếc chiếu. Cạnh
dựng một cây cột nhỏ, cao chừng 1,5m, trên treo tấm vải đen và chiếc cột khác
treo gùi - tượng trưng cho kho lúa, phần được chia của người đã khuất.
Chăn nuôi: Trâu, lợn, gà trước hết để
cúng tế; chó hầu như nhà nhà đều có. Nghề dệt và rèn không phát triển. Ðồ đan đẹp
và phong phú. Sản phẩm hái lượm và săn bắt có ý nghĩa không nhỏ trong đời sống
người Co.
Ăn: Bữa ăn thông thường là cơm gạo tẻ, muối ớt,
các loại rau rừng và thịt cá kiếm được. Trước kia, đồng bào quen ăn bốc. Ðồ uống
là nước lã, rượu cần, nay nhiều người đã dùng nước chín, nước chè xanh, rượu cất.
Tục ăn trầu cau chỉ được duy trì ở lớp người lớn tuổi, nhưng tục hút thuốc lá vẫn
còn phổ biến.
Ở:Người Co sống tập trung ở Trà Bồng và Trà Mi thuộc
tây bắc tỉnh Quảng Ngãi và tây nam tỉnh Quảng Nam. Nhà sàn dài, cửa ra vào ở
hai đầu hồi. Trong nhà chia dọc thành 3 phần: lối đi ở giữa, một bên được ngăn
thành từng buồng nhỏ cho các gia đình sinh hoạt riêng, còn một bên dùng làm nơi
sinh hoạt chung (tiếp khách, họp bàn, tổ chức lễ hội, ăn uống đông người, đan
lát, vui chơi...). Xưa kia thường mỗi làng ở tập trung trong một vài ngôi nhà
kiểu này, dài có khi hàng trăm mét, bên ngoài có rào chắn và bố trí vũ khí để
phòng vệ. Gần đây, khắp vùng người Co phát triển trào lưu từng gia đình tách ra
làm nhà ở riêng, nhà trệt, dựng theo kiểu nhà người Việt ở địa phương, đã có
nhiều nhà lợp tôn, lợp ngói, cả nhà xây nữa.
Mặc: Ðồ mặc của người Co chủ yếu
mua của người Xơ Ðăng và người Việt. Theo nếp truyền thống, nam đóng khố, ở trần,
nữ quấn váy, mặc áo cộc tay; mùa lạnh thì khoác tấm vải choàng. Bộ quần áo dài
với khăn xếp du nhập từ đồng bằng lên từng được dùng trưng diện trong ngày lễ hội,
nhất là những bô lão khá giả. Ngày nay, quần áo người Việt được dùng lan tràn,
váy còn thấy một số phụ nữ mặc nhưng đều dùng vải công nghiệp. Các loại vòng
trang sức cũng chỉ bắt gặp thưa thớt, đơn giản, không dễ tìm được những phụ nữ
quấn nhiều chuỗi hạt cườm quanh đầu, quanh cổ tay, cổ chân, trước ngực và quanh
thắt lưng như trước kia nữa.
Phương tiện vận chuyển: Người Co có các loại gùi tự đan
dùng để vận chuyển rất tiện lợi, thích hợp với điều kiện đất dốc, rừng núi và
suối. Mọi thứ đều bỏ trong gùi và gùi được cõng trên lưng, có 2 quai quàng qua
đôi vai.
Quan hệ xã hội: Mỗi làng có ông "già
làng" được mọi người kính trọng và nghe theo. Dân làng sinh sống trên một
địa vực ổn định có ranh giới, việc chuyển dịch cư trú của làng cũng chỉ trong
vùng lãnh thổ ấy. Trong làng thường có quan hệ thân thuộc qua lại với nhau: hoặc
về huyết thống, hoặc do hôn nhân. Tuy mỗi gia đình làm ăn riêng, chiếm hữu
riêng đất rẫy, nhưng tính cộng đồng làng khá cao. Xã hội truyền thống Co đã nảy
sinh giàu - nghèo khác nhau, nhưng chưa phát triển các hình thức bóc lột: nô lệ
gia đình, cho vay nặng lãi...
Cưới xin:Hình thức hôn nhân cư trú đằng chồng
là phổ biến. Phong tục cho phép nếu vợ chết có thể lấy tiếp em hoặc chị của vợ,
nhưng vợ goá không thể lấy em chồng; nếu 2 anh em trai lấy 2 chị em gái thì phải
anh lấy chị, em lấy em; nếu con gái nhà này đã làm dâu nhà kia thì 2 - 3 đời
sau nhà kia mới gả con gái cho nhà này. Con cô - con cậu, con gì - con già, con
có chung cha mẹ đều không được lấy nhau. Cùng một gốc sinh thành, nếu là anh em
trai thì đời chắt của họ hoặc sau đó nữa mới có thể lấy nhau, song nếu là chị
em gái hay một gái một bên trai thì cháu hoặc chắt của họ có thể lấy nhau. Ðám
cưới đơn giản, gọn nhẹ, không tốn kém nhiều, chỉ là dịp mọi người uống rượu vui
chứng kiến đôi trai gái thành vợ, thành chồng.
Ma chay: Quan tài gỗ, đẽo theo kiểu độc mộc.
Người chết được chôn trong bãi mộ của làng, đặt không xa chỗ ở. Tang gia
"chia của" cho người mới chết, đưa ra mộ không chỉ vật dụng và tư
trang của người ấy, mà cả ché, chiêng...
Thờ cúng: Những đỉnh núi cao được người
Co gọi là núi Ông núi Bà. Họ cho rằng có "thần linh" trú ngụ ở đó. Hệ
thống "ma" (ka muych) và "thần" (kơi, ma) rất đông: ma người
chết bình thường, ma người chết bất bình thường, ma quế, ma cây đa, ma nước, thần
bếp lửa... Bởi vậy, người ra có nhiều kiêng cữ và cúng quải gắn với sản xuất và
đời sống.
Lễ tết: Người Co có nhiều lễ, lớn nhất là
lễ có đâm trâu tế thần - đây cũng là ngày hội lớn trong làng. Ngoài ra, tết gắn
với sự kết thúc một mùa lúa rẫy là dịp sinh hoạt nhộn nhịp. Trong hai dịp đó,
các món ăn dân tộc, nghệ thuật dân tộc và trang phục dân tộc được thể hiện tập
trung, khơi dậy văn hoá truyền thống.
Lịch: Cách tính ngày tháng tương đương
với âm lịch của người Việt, nhưng chỉ có 10 tháng, tiếp đến là thời gian nghỉ
ngơi sau vụ canh tác. Bên cạnh đó, người Co coi trọng việc xác định ngày tốt, xấu
để thực hiện các công việc khác nhau.
Văn nghệ: Ưa thích âm nhạc, dùng bộ chiêng
3 chiếc là phổ biến: nhạc cụ còn có trống, các loại đàn nhị. Múa chỉ xuất hiện
trong lễ đâm trâu. Các điệu dân ca Xru (Klu), Agiới được lưu truyền rộng rãi. Vốn
truyện cổ khá phong phú, có huyền thoại, truyền thuyết, truyện ngụ ngôn... Nghệ
thuật trang trí tập trung nhất ở cây cột lễ và cái "gu" trong lễ hội
đâm trâu.
Lý Quảng Ninh (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét