Người Việt (Kinh)
Tổng số dân 90 triệu
Khu vực có số dân đáng kể
Việt Nam 90.594.427
(2016)
Ngôn ngữ Tiếng Việt
Tôn giáo Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo và
Tín ngưỡng dân gian[18][19][20]
Công giáo, Cao Đài, Hòa Hảo và các tôn
giáo khác.
Sắc tộc có liên quan
Mường
Người Việt hay người Kinh là một dân tộc
hình thành tại khu vực địa lý mà ngày nay là miền Bắc Việt Nam và miền Nam
Trung Quốc. Đây là dân tộc chính, chiếm khoảng 86,2% dân số Việt Nam và được gọi
chính thức là dân tộc Kinh để phân biệt với những dân tộc thiểu số tại Việt
Nam. Ngôn ngữ chính sử dụng là tiếng Việt theo nhóm Việt-Mường. Người Kinh sinh
sống trên khắp toàn thể nước Việt Nam và một số nước khác nhưng đông nhất vẫn
là các vùng đồng bằng và thành thị trong nước.
Mục lục
1 - Truyền thuyết
2 - Nguồn gốc
3 - Phân bố
3 - Tại Việt Nam
4 - Đặc điểm kinh tế
5 - Món ăn yêu thích
6 - Tổ chức cộng đồng
7 - Văn hóa
8 - Tầm vóc
9 - Nhà cửa
10 - Trang phục
11 - Trang phục nam
12 - Trang phục nữ
13 - Hôn nhân gia đình
Truyền thuyết
Theo truyền thuyết dân tộc Kinh, những người Việt đầu tiên là con cháu của một thần
rồng tên là Lạc Long Quân và một vị tiên tên là Âu Cơ. Hai người này lấy nhau
và đẻ ra một bọc 100 trứng và nở ra 100 người con. Những người con sinh ra cùng
một bọc gọi là "cùng bọc" (hay còn gọi là Đồng bào) và "đồng
bào" là cách gọi của người Việt để nói rằng tất cả người Việt Nam đều cùng
có chung một nguồn gốc.
Nguồn gốc
Có hai luồng quan điểm về nguồn gốc của
người Việt. Một số học giả tin rằng người Việt đầu tiên dần dần chuyển từ quần
đảo Indonesia thông qua bán đảo Mã Lai và Thái Lan cho đến khi họ định cư trên
các cạnh của sông Hồng ở Đồng bằng Bắc Bộ[cần dẫn nguồn] bằng cách lần theo con
đường của các công cụ đá từ cuối Thế Pleistocen (600,000-12,000 trước Công
nguyên), trên Java, Malaysia, Thái Lan và phía bắc Miến Điện. Những công cụ bằng
đá được cho là các công cụ con người đầu tiên được sử dụng trong khu vực Đông
Nam Á. Các nhà khảo cổ tin rằng vào thời điểm này Hy Mã Lạp Sơn, một dãy núi ở
miền bắc Miến Điện và Trung Quốc, tạo ra một rào cản băng giá mà cô lập người
dân Đông Nam Á. Một số khác cho rằng người Việt đầu tiên vốn là một bộ tộc gốc
Mông Cổ ở Tây Tạng, di cư xuống phía nam từ thời đồ đá cũ[cần dẫn nguồn]Nhóm
dân tộc này định cư tại vùng Bắc Bộ, thượng nguồn sông Hồng ngày nay và tạo nên
nền văn minh Đông Sơn. Nhóm bộ tộc này cũng có sự tương đồng rất lớn về nhân chủng,
văn hóa với các tộc người ở phía Nam Trung Quốc - mà sử Trung Quốc còn gọi là cộng
đồng Bách Việt.
Vào năm 257 TCN An Dương Vương thành lập
vương quốc Âu Lạc, tại miền Bắc Việt Nam bây giờ. Vào năm 208 TCN vua nước Nam
Việt là Triệu Đà tiến đánh Âu Lạc, tiêu diệt An Dương Vương. Triệu Đà hợp nhất
Âu Lạc với các lãnh thổ tại miền cực nam Trung Quốc thành vương quốc Nam Việt.
Phân bố
Bài chi tiết: Nguyễn Hoàng và Nam tiến
Trên thế giới
Vào thế kỷ 16, một số người Việt di cư về
phía bắc vào Trung Quốc. Tuy đã bị ảnh hưởng Trung Hoa nhiều hơn, con cháu những
người này vẫn còn nói tiếng Việt và được công nhận là một dân tộc thiểu số tại
Trung Quốc.
Tại Việt Nam
Tuy gốc từ miền Bắc Việt Nam, người Việt
đã Nam tiến và chiếm đất đai của vương quốc Chiêm Thành qua thời gian. Hiện nay
họ là dân tộc đa số trong phần lớn các tỉnh tại Việt Nam.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009, người Kinh ở Việt Nam có dân số 73.594.427 người, chiếm 85,7% dân số cả
nước, cư trú tại tất cả 63 tỉnh, thành phố. Các tỉnh, thành phố có số lượng người
Kinh lớn nhất là: Thành phố Hồ Chí Minh (6.699.124 người), Hà Nội (6.370.244
người), Thanh Hóa (2.801.321 người), Nghệ An (2.489.952 người), Đồng Nai
(2.311.315 người), An Giang (2.029.888 người).
Người Kinh là dân tộc đa số tại Việt Nam,
tuy nhiên tại một số tỉnh miền núi phía Bắc, người Kinh lại là dân tộc thiểu số:
Lào Cai (212.528 người, chiếm 34,6% dân số toàn tỉnh, tỉnh này không có dân tộc
đa số), Hòa Bình (207.569 người, chiếm 26,4% dân số toàn tỉnh, người Mường là
dân tộc đa số ở Hòa Bình, chiếm 63,9%), Sơn La (189.461 người, chiếm 17,6% dân
số toàn tỉnh, người Thái là dân tộc đa số ở Sơn La), Lạng Sơn (124.433 người,
chiếm 17,0% dân số toàn tỉnh, tỉnh này không có dân tộc đa số), Hà Giang
(95.969 người, chiếm 13,2% dân số toàn tỉnh, tỉnh này không có dân tộc đa số),
Điện Biên (90.323 người, chiếm 18,4% dân số toàn tỉnh, tỉnh này không có dân tộc
đa số), Lai Châu (56.630 người, chiếm 15,3% dân số toàn tỉnh, tỉnh này không có
dân tộc đa số), Bắc Kạn (39.280 người, chiếm 13,4% dân số toàn tỉnh, người Tày
là dân tộc đa số ở tỉnh này), Cao Bằng (29.189 người, chỉ chiếm 5,76% dân số
toàn tỉnh, tỉnh này không có dân tộc đa số).
Đặc điểm kinh tế
Có thể nói nền kinh tế mạnh nhất là nền
nông nghiệp lúa nước. Nền văn minh lúa nước đã được khai sinh từ rất ngàn đời
xưa và đạt được trình độ nhất định. Nền nông nghiệp phát triển cũng nhờ một phần
vào sự đào đê, đào nương. Ngoài nghề nông nghiệp, người Kinh cũng làm một số
các nghề khác ví dụ như chăn nuôi gia súc, làm đồ thủ công... Là những nghề đòi
hỏi sự khéo léo cao!
Món ăn yêu thích
Người Kinh có truyền thống ăn trầu cau,
hút thuốc lá, nước vối, nước chè, hút thuốc lào, các loại cơm, cháo, xôi, mắm
tôm, thịt chó, trứng vịt lộn. Việc hút thuốc lá, thuốc lào có lẽ sau thế kỷ 16,
sau khi cây thuốc lá nhập vào Việt Nam từ châu Mỹ.
Tổ chức cộng đồng
Theo truyền thống ngàn đời thì người Kinh
sống theo làng. Nhiều làng họp lại thì thành một xã. Mỗi làng có thể có nhiều
xóm. Nếu tính ra một thôn của miền Bắc thì bằng với một ấp của miền Nam. Trong
các làng và xã đều có luật lệ riêng mà mọi người đều phải thi hánh. Các làng miền
Bắc thường được che chắn bằng cách trồng tre hoặc xây cổng kiên cố. Mỗi làng đều
có nơi hội tụ và thờ lạy chung. Một số làng có đình thờ thành hoàng làng, là
người được coi là thần bảo hộ của làng. Vào thời xưa thì phụ nữ bị cấm không được
đến đình làng.
Văn hóa
Văn học của người Kinh đã từng tồn tại từ
rất lâu và được truyền miệng qua truyển cổ, ca dao, tục ngữ... Nghệ thuật phong
phú như ca hát, âm nhạc, điêu khắc, hội họa, múa, diễn xướng... Hàng năm thì
theo truyền thống các làng đều tổ chức hội làng với các sinh hoạt cộng đồng.
Khoảng sau Công nguyên, người Kinh bị Bắc thuộc nên đã dùng chữ Hán nhưng sau
này tự tạo chữ viết riêng là chữ Nôm. Tuy nhiên chữ Hán vẫn là ngôn ngữ chính
thức được dùng trong hành chính và giáo dục. Từ khoảng thế kỷ thứ 16 các giáo
sĩ truyền giáo đến từ phương Tây thấy cần dùng chữ cái Latin để ký âm tiếng Việt.
Từ đó xuất hiện chữ Quốc Ngữ được sử dụng rộng rãi ngày nay. Năm 1945, 95% dân
số Việt Nam mù chữ nhưng đến năm 2010 tỷ lệ biết chữ ở người lớn là 97,3%.Tuy
nhiên tỷ lệ đọc sách của người Việt khá thấp ở mức 0,8 cuốn sách/người/năm.Với
mức này, có thể nói người Việt chưa có văn hóa đọc.
Ngoài các giá trị vật chất, người Việt còn
có những giá trị tâm linh như việc thờ cúng tổ tiên, giỗ và các lễ hội như Tết.
Các tôn giáo phổ biến như Phật giáo, Công giáo Rôma, đạo Cao Đài...
Tầm vóc
Hiện nay, chiều cao trung bình của nam
thanh niên Việt Nam là 164 cm, thấp nhất Châu Á, thua 8 cm so với Nhật và 10 cm
so với Hàn Quốc. Còn chiều cao của nữ giới thì gần 154 cm.
Theo tiến sĩ Lê Bạch Mai, Phó viện trưởng
Viện Dinh dưỡng quốc gia Việt Nam cho biết tại buổi họp báo sáng 8 tháng 10 năm
2014, người Việt thấp bé nhẹ cân không phải thuộc tính di truyền mà có thể cải
thiện nhờ chế độ dinh dưỡng hợp lý.
Nhà cửa
Phong cách và hình dạng nhà cửa tùy theo từng
vùng và miền. Chủ yếu là nhà được xây dựng bằng những vật liệu sẵn có như cỏ
khô, rơm rạ, tre nứa. Nhà điển hình là nhà lá 3 gian hoặc 5 gian. Tuy nhiên do
điều kiện thời tiết khí hậu nên nhà cửa ở miền trung và miền nam có chút ít
khác biệt nhưng nhìn chung vẫn là kết cấu nhà 5 gian. Hiện nay, do nhiều nguyên
nhân nên nhà ở đã có sự thay đổi cả về kết cấu và vật liệu xây dựng. Hầu như
nhà nào cũng có phòng khách, phòng ngủ, phòng ăn và nhà bếp.
Trang phục
Trang phục Việt Nam đa dạng và muôn màu
qua khăn áo, váy, quần, khố, mũ, nón, trang sức....
Trang phục Nam
Nói chung người Việt Nam dù ở Bắc, Trung
hay Nam đều có cách mặc gần giống nhau. Các loại quần áo như áo ngắn mặc với quần
lá tọa ống rộng, quần có cạp hoặc dùng dây rút. Thời xưa thì đàn ông để tóc
dài, búi tó, hoặc thắt khăn đầu rìu,... Vào các lễ hội đặc biệt thì mặc áo dài
khăn đống, mùa áo đơn giản không có văn hoa. Chân thì đi guốc mộc.
Trang phục Nữ
Trang phục truyền thống trong đám cưới của
người Việt
Vào thời xưa thì phụ nữ người Kinh ai cũng
mặc yếm. Váy thì váy dài với dây thắt lưng. Các loại nón thông thường như
thúng, ba tầm... Trong những ngày hội thì người phụ nữ thường mặc áo dài. Các
thiếu nữ thì hay làm búi tóc đuôi gà. Các đồ trang sức truyền thống như trâm,
vòng cổ, hoa tai, nhẫn, vòng tay mang phong cách tùy theo từng vùng. Phụ nữ Nam
Bộ thường mặc áo bà ba với các kiểu cổ như tròn, trái tim, bà lai với các khăn
trùm đầu. Nón lá có thể nói là nón được sử dụng rộng rãi nhất cho phụ nữ thời
xưa do nó có thể tự làm và che nắng rất tốt.
Hôn nhân gia đình
Theo truyền thống thì người đàn ông là trụ
cột gia đình. Các đứa con đều lấy họ cha và được coi là nối nghiệp tông đường.
Dòng họ của bố là "họ nội" còn dòng họ bên mẹ là "họ ngoại".
Đứa con trai đầu thường là người giao cho trọng trách nhiều nhất trong gia
đình. Mỗi họ đều có chỗ thờ họ và người trưởng họ sẽ lo việc chung. Cháu trai của
đời con trai đầu được gọi là "cháu đích tôn". Hôn nhân chỉ được chấp
nhận dưới dạng một chồng một vợ. Quan hệ đồng tính hiện chưa được chính phủ chấp
nhận tại Việt Nam. Việc cưới xin thì thưởng phải đi qua các nghi thức truyền thống
của người Việt. Người Kinh coi trong sự trinh trắng và đức hạnh của người con
gái và còn quan tâm đến gia thế của họ.
Các khía cạnh văn hóa Việt Nam
Dân tộc
Phong tục
Lễ hội
Tín ngưỡng
Tôn giáo
Ngôn ngữ
Văn học
Nghệ thuật
Ẩm thực
Trang phục
Di sản
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét