Người
Bố Y (tiếng Trung: 布依族, bính âm:
Bùyīzú), còn gọi là Chủng Chá, Trọng Gia, Tu Dí, Tu Dìn hay Pu Nà.
Người
Bố Y nói tiếng Bố Y, một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Thái trong hệ ngôn ngữ
Tai-Kadai.
Dân
tộc Bố Y có dân số khoảng 2.971.460 người, chủ yếu sống tại Trung Quốc (các tỉnh
Quý Châu, Vân Nam, Tứ Xuyên), và chỉ khoảng 1.900 người sinh sống tại Việt
Nam[1] ở các huyện biên giới ở các tỉnh Lào Cai, Hà Giang.
Mặc
dù tại cả Trung Quốc lẫn Việt Nam họ được nhà nước công nhận như là một nhóm sắc
tộc riêng rẽ, nhưng chính họ lại tự coi mình là người Tráng.
Địa
bàn cư trú[sửa | sửa mã nguồn]
Tại
Việt Nam theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Bố Y có dân số
2.273 người, cư trú tại 14 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Bố Y cư trú tập
trung tại các tỉnh: Lào Cai (1.398 người, chiếm 61,5% tổng số người Bố Y tại Việt
Nam), Hà Giang (808 người, chiếm 35,5% tổng số người Bố Y tại Việt Nam), Yên
Bái (19 người), Tuyên Quang (18 người).
Ngôn
ngữ
Người
Bố Y nói tiếng Bố Y, một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Thái trong hệ ngôn ngữ
Tai-Kadai. Tiếng Bố Y rất gần gũi với tiếng Tráng. Có một sự liên tục phương
ngôn giữa hai thứ tiếng này. Tiếng Bố Y có dạng chữ viết riêng của mình, được
các nhà ngôn ngữ tạo ra trong thập niên 1950 dựa trên bảng chữ cái La tinh và với
các quy tắc phát âm tương tự như hệ thống bính âm được đặt ra cho tiếng Trung
La tinh hóa.
Lịch
sử
Làng
nhỏ của người Bố Y tại Trung Quốc
Người
Bố Y là nhóm sắc tộc trong số các sắc tộc Thái bản địa của vùng bình nguyên Quý
Châu. Họ là một trong số các dân tộc cổ đại nhất tại Trung Quốc, sinh sống
trong khu vực này đã trên 2.000 năm. Cho tới khi thành lập nhà Đường, người Bố
Y và người Tráng có liên hệ chặt chẽ với nhau; nhưng các khác biệt giữa hai
nhóm sắc tộc ngày càng trở lên nhiều hơn và từ khoảng năm 900 trở đi thì họ đã
thực sự là 2 dân tộc khác biệt.
Nhà
Thanh hủy bỏ hệ thống các thủ lĩnh địa phương và giao nhiệm vụ cai trị cho các
quan chức triều đình tại địa phương kiêm quản cả quân đội. Việc này đã tạo ra sự
thay đổi trong kinh tế khu vực; và từ đó trở đi, đất đai nằm trong tay của một
số ít chủ đất và điều đó đã gây ra sự nổi dậy của dân chúng. Trong cuộc nổi dậy
Nanlang năm 1797, người Bố Y bị đàn áp nặng nề và nhiều người phải di cư sang
Việt Nam.
Đặc điểm
kinh tế
Người
Bố Y sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy. Họ nuôi nhiều gia súc, gia cầm, đặc
biệt họ có nhiều kinh nghiệm nuôi cá. Hàng năm, khi mùa mưa đến, họ ra sông tìm
vớt trứng cá và cá lớn để thả vào ao và ruộng nước.
Trước
đây, người Bố Y thường làm mộc, rèn, gốm, đục đá và chạm bạc. Phụ nữ biết trồng
bông, kéo sợi, dệt vải, may thêu quần áo, túi khăn.
Tổ
chức cộng đồng
Mỗi
dòng họ có một hệ thống tên đệm khoảng 5 đến 9 chữ. Mỗi chữ đệm dành cho một thế
hệ và chỉ rõ vai vế của người mang dòng chữ đó trong quan hệ họ hàng.
Hôn
nhân gia đình
Lễ cưới
của người Bố Y khá phức tạp và tốn kém.
Trong
lễ đón dâu, thường nhà trai chỉ có khoảng 8 đến 10 người, trong đó phải có 1 đến
2 đôi còn son trẻ, 2 đôi đã có vợ có chồng. Nét độc đáo của người Bố Y là chàng
rể không đi đón dâu, cô em gái của chàng rể dắt con ngựa hồng đẹp mã để chị dâu
cưỡi lúc về nhà chồng. Nhà gái cũng cử ra một đoàn, thành phần như nhà trai.
Khi về nhà chồng, cô dâu mang theo một chiếc kéo và một con gà mái nhỏ, đi đến
giữa đường thì thả gà vào rừng.
Xưa
kia người phụ nữ Bố Y có tục đẻ ngồi, nhau của đứa trẻ chôn dưới gầm giường của
mẹ. Khi bố mẹ chết, con cái phải kiêng kỵ, nghiêm ngặt trong 90 ngày đối với
tang mẹ, 120 ngày đối với tang cha.
Văn
hóa
Vốn
văn nghệ dân gian như truyện cổ, tục ngữ, dân ca khá phong phú.
Nhà
cửa
Tuy
người Bố Y cư trú trên vùng cao, có lượng mưa nhiều, độ ẩm lớn, hầu như quanh năm
sương mù bao phủ. Nhưng họ vẫn ở nhà nền, loại nhà phổ biến có đặc điểm: cấu
trúc ba gian, hai mái vuông, xung quanh trình tường, phía trước là một hàng
hiên. Bộ khung được sử dụng bằng các vật liệu vững chắc như gỗ hoặc tre. Mái bằng
cỏ gianh, song cũng có nhà lợp ngói. Bộ khung cấu tạo cân đối bởi hai kèo đơn
và năm hàng cột, trong đó, có đôi cột trốn là đôi cột giữa.
Cũng
đã xuất hiện một số nhà có hiên bốn mặt. Đối với loại này thì cột trốn lại là đôi
cột ngoài. Nhà thường thấy một cửa chính đi vào giang giữa, một cửa phụ nơi đầu
hồi để qua bếp đun và hai cửa sổ trông ra hàng hiên. Tuy là nhà nền, nhưng nhà
nào cũng có một sàn gác trên lưng quá giang. Đó là nơi để ngũ cốc và làm chỗ ngủ
của những người con trai chưa lập gia đình.
Nhà
của người Bố Y thường quần tụ bên bờ suối, trên sườn đồi hay trong thung lũng
nhưng nền đã được tôn cao,
Trang
phục
Có
phong cách tạo dáng, chủng loại và phong cách mỹ thuật riêng.
Trang
phục nam
Nam
giới thường mặc áo cổ viền, loại áo cánh ngắn, tứ thân; quần lá tọa màu chàm bằng
vải tự dệt.
Trang
phục nữ
Những
năm đầu thế kỷ, phụ nữ Bố Y để tóc dài, tết quấn quanh đầu, hoặc đội khăn có
trang trí hoa văn đội thành hình chữ nhân cao mái trên đầu, hoặc khăn chàm bình
thường quấn ngang trên đầu.
Họ mặc
áo ngắn năm thân xẻ nách phải, cổ, ống tay áo, chỗ cài cúc được trang trí và viền
vải khác màu hoa văn sặc sỡ. Ngày xưa, họ mặc váy xòe giống phụ nữ H'mông Hoa,
khi mặc áo lồng vào phía trong cạp váy. Đồng bộ với áo là chiếc xiêm khác màu
(thường là màu đen trên nền vải xanh), trước ngực được trang trí hoa văn ngũ sắc,
ngắn tới thắt lưng. Áo có chiếc xiêm khâu chiết phía trên, có dải thắt lưng rồi
buông thõng sau lưng. Phụ nữ ưa mang nhiều đồ trang sức như dây chuyền, vòng cổ,
vòng tay.
Trong
lễ, tết họ mặc áo dài liền váy kiểu chui đầu. Cổ áo ny rộng xuống tới bụng có
thuê hoa văn hình hoa lá đối xứng, ống tay viền vải khác màu ở cửa tay. Bên
trong mặc váy nhiều nếp gấp kiểu Hmông Hoa. Đầu đội khăn chàm đen.
Phong
cách trang phục riêng của Bố Y không phải là loại áo xẻ nách của phụ nữ, mà là
lối mặc và trang trí đi kèm với Xiêm, và phong cách áo dài có nét riêng biệt, mặc
dù trong quá trình lịch sử người Bố Y có giao thoa văn hóa với nhiều dân tộc
khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét