Nhà mồ của người Thái |
Tên gọi khác:
Tày, Tày Khao (Thái Trắng), Tày Đăm (Thái Đen), Tày Mười, Tày Thanh (Man
Thanh), Hàng Tổng (Tày Mường), Pu Thay, Thổ Đà Bắc, Tay Dọ, Thổ.
Nhóm địa phương: Ngành Ðen (Tay Ðăm), Ngành trắng (Tay Ðón hoặc Khao).
Nhóm địa phương: Ngành Ðen (Tay Ðăm), Ngành trắng (Tay Ðón hoặc Khao).
Nhóm ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).
Cư trú: Sống tập trung tại các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Nghệ An
Lịch sử: Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên
xa xưa của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm.
Đặc điểm kinh tế: Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, đào mương, dựng
con, bắc máng lấy nước làm ruộng. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt
là lúa nếp. Người Thái cũng làm nương để trồng lúa, hoa màu và nhiều thứ cây khác.
Từnggia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm,
đan lát, dệt vải, một số nơi làm đồ gốm...Sản phẩm nổi
tiếng của người Thái là vải thổ cẩm, với những hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ,
bền đẹp.
Hôn nhân gia đình: Trước kia người Thái theo chế độ hôn nhân mua bán và ở rể
nên việc lấy vợ và lấy chồng phải qua nhiều bước, trong đó có 2 bước cơ bản:
Cưới lên (đong khửn) - đưa rể đến cư trú nhà vợ -
là bước thử thách phẩm giá, lao động của chàng rể. Người Thái Ðen có tục búi
tóc ngược lên đỉnh đầu cho người vợ ngay sau lễ cưới này. Tục ở rể từ 8 đến 12
năm.
Cưới xuống (đong lông) đưa gia đình trở về với họ
cha.
Tục lệ ma chay: Đồng bào quan niệm, chết là tiếp tục "sống" ở thế
giới bên kia. Vì vậy, đám ma là lễ tiễn người chết về "Mường trời".
Lễ tang có 2 bước cơ bản:
Pông: Phúng
viếng tiễn đưa hồn người chết lên cõi hư vô, đưa thi thể ra rừng chôn (Thái Trắng), thiếu
(Thái Ðen).
Xống: gọi
ma trở về ngụ ở gian thờ cúng tổ tiên ở trong nhà.
Văn hóa: Thần
thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện thơ, ca dao... là những vốn quý báu của
văn học cổ truyền người Thái. Những tác phẩm thơ ca nổi tiếng của đồng bào Thái
là: "Xống chụ xôn xao", "Khun Lú, Nàng Ửa". Người Thái sớm
có chữ viết nên nhiều vốn cổ (văn học, luật lệ, dân ca) được ghi chép lại trên
giấy bản và lá cây. Đồng bào rất thích ca hát, đặc biệt là khắp. Khắp là lối
ngâm thơ hoặc hát theo lời thơ, có thể đệm đàn và múa. Nhiều điệu múa như múa
xòe, múa sạp đã được trình diễn trên sân khấu trong và ngoài nước, hấp dẫn đông
đảo khán giả. Hạn khuống, ném còn là hai đặc trưng văn hóa nổi tiếng của người
Thái.
Nhà cửa:
Mỗi nhà người Thái thường có hai bếp, một bếp để tiếp
khách, sưởi ấm, một bếp khác để nấu cơm. Chõ xôi (ninh đồng, chõ gỗ) được đặt
trên 3 ông đầu rau bằng đá. Phía trên bếp có giàn để các thức cần sấy khô. Người
Thái thường dùng ghế mây tròn để ngồi quanh bếp.
Như mọi người đã rõ, nước ta có hai nhóm Thái lớn là: Thái Trắng và Thái Đen.Ngoài ra còn một vài nhóm nhỏ. Nhà người Thái trắng có khá nhiều điểm gần với nhà Tày - Nùng. Còn nhà Thái Đen lại gần với nhà của các cư dân Môn - Khơ me. Tuy vậy, nhà Thái Đen lại có những đặc trưng không có ở nhà của cư dân Môn - Khơ me. Nhà Thái Đen nóc hình mai rùa, chỏm đầu đốc có khau cút với nhiều kiểu khác nhau. Hai gian hồi để trống và có lan can bao quanh. Khung cửa ra vào và cửa sổ có nhiều hình thức trang trí khác nhau. Bộ khung nhà Thái có hai kiểu cơ bản là khứ tháng và Khay điêng. Vì khay điêng là vì khứ kháng được mở rộng bằng cách thêm hai cột nữa. Kiểu vì này dần gần lại với kiểu vì nhà người Tày - Nùng.
Một góc nhà của người thái
Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt của nhà Thái Đen khá độc
đáo: các gian đều có tên riêng. Trên mặt sàn được chia thành hai phần: một phần
dành làm nơi ngủ của các thành viên trong gia đình, một nửa dành cho bếp và còn
là nơi để tiếp khách namNhà mới: Dẫn chủ nhân lên nhận
nhà Lung Ta châm lửa đốt củi ở bếp mới.
Người ta thực hiện tại nghi lễ, cúng đọc bài mo xua đuổi điều ác thu điều lành,
cúng tổ tiên, vui chơi.
Trang phục: Có
nhiều nhóm địa phương với những phong cách trang phục khác nhau.
Trang phục nam:Thường nhật, trong sinh hoạt
và lao động, nam giới người Thái mặc áo cánh ngắn, xẻ ngực, quần xẻ đũng. Áo là
loại cổ tròn, không cầu vai, hai túi dưới và trước cài cúc vải hoặc xương. Đặc
điểm của áo cánh nam giới người Thái khu Tây Bắc không phải là lối cắt may (vì
cơ bản giống áo ngắn nam Tày, Nùng, Kinh...) mà là ở màu sắc đa dạng của loại vải
cổ truyền của cộng đồng sáng tạo nên: không chỉ có màu chàm, trắng mà còn có
màu cà phê sữa, hay dật các vuông bằng các sợi màu đỏ, xanh, cà phê... Trong
các ngày lễ, tết họ mặc loại áo dài xẻ nách phải màu chàm, đầu quấn khăn đi guốc.
Trong tang lễ họ mặc nhiều loại áo sặc sỡ, tương phản màu sắc với ngày thường với
lối cắt may dài, thụng, không lượn nách với các loại: xẻ ngực, xẻ nách, chui đầu.
Mấy chục năm gần đây, nam giới người Thái mặc âu phục khá phổ biến.
Trang phục nữ: Cô gái Thái đẹp nhờ mặc áo cánh ngắn, đủ màu sắc, đính khuy bạc hình bướm, nhện, ve sầu... chạy trên đường nẹp xẻ ngực, bó sát thân, ăn nhịp với chiếc váy vải màu thâm, hình ống; thắt eo bằng dải lụa màu xanh lá cây; đeo dây xà tích bạc ở bên hông. Ngày lễ có thể vận thêm áo dài đen, xẻ nách, hoặc kiểu chui đầu, hở ngực có hàng khuy bướm của áo cánh, chiết eo, vai phồng, đính vải trang trí ở nách, và đối vai ở phía trước như của Thái Trắng. Nữ Thái Ðen đội khăn piêu nổi tiếng trong các hình hoa văn thêu nhiều màu sắc rực rỡ. Nam người Thái mặc quần cắt để thắt lưng; áo cánh xẻ ngực có túi ở hai bên gấu vạt, áo người Thái Trắng có thêm một túi ở ngực trái; cài khuy tết bằng dây vải. Màu quần áo phổ biến là đen, có thể màu gạch non, hoa kẻ sọc hoặc trắng. Ngày lễ mặc áo đen dài, xẻ nách, bên trong có một lần áo trắng, tương tự để mặc lót. Bình thường cuốn khăn đen theo kiểu mỏ rìu. Khi vào lễ cuốn dải khăn dài một sải tay.
Trang phục nữ Thái chia làm 2 loại phân biệt khá rõ theo
hai ngành Thái Tây Bắc là Thái trắng (Táy khao) và Thái đen (Táy đăm):
Thái trắng: Thường nhật, phụ nữ Thái trắng mặc áo cánh ngắn
(xửa cóm), váy màu đen không trang trí hoa văn. Áo thường là màu sáng, trắng,
cài cúc bạc tạo hình bướm, ve, ong... Cái khác xửa cóm Thái
đen là cổ áo hình chữ V. Thân áo ngắn hơn áo cánh người Kinh, tạo dáng ôm chặt
lấy thân, khi mặc cho vào trong cạp váy. Váy là loại váy kín (ống), màu đen,
phía trong gấu đáp vải đỏ. Khi mặcxửa cóm và váy chị em còn tấm
choàng ra ngoài được trang trí nhiều màu. Khăn đội đầu không có hoa văn mà chỉ
là băng vải chàm dài trên dưới 2 mét... Trong các dịp lễ tết họ mặc áo dài màu
đen. Đây là loại áo dài thụng thân thẳng, không lượn nách, được trang trí bằng
vải 'khít' ở giữa thân có tua vải phủ từ vai xuống ngực, nách áo trang trí theo
lối đáp hai mảng hoa văn trong bố cục hình tam giác. Phụ nữ chưa chồng búi tóc
sau gáy, có chồng búi trên đỉnh đầu. Họ có loại nón rộng vành.
Thái đen: Thường nhật phụ nữ Thái đen mặc xửa cóm màu tối
(chàm hoặc đen), cổ áo khác cổ áo Thái trắng là loại cổ tròn, đứng. Đầu đội
khăn 'piêu' thêu hoa văn nhiều mô-típ trang trí mang phong cách từng mường. Váy
là loại giống phụ nữ Thái trắng đã nói ở trên. Lối để tóc có chồng và chưa chồng
cũng giống ngành Thái trắng. Trong lễ, tết áo dài Thái đen đa dạng với các loại
xẻ nách, chui đầu, trang trí phong phú đa dạng về màu và màu mà mô-típ hơn Thái
trắng.
Ăn: Ngày
nay gạo tẻ đã trở thành lương thực chính, gạo nếp vẫn được coi là lương ăn truyền
thống. Gạo nếp ngâm, bỏ vào chõ, đặt lên bếp, đồ thành xôi. Trên mâm ăn không
thể thiếu được món ớt giã hoà muối, tỏi, có rau thơm, mùi, lá hành... có thể
thêm gan gà luộc chín, ruột cá, cá nướng... gọi chung là chéo.
Hễ có thịt các con vật ăn cỏ thuộc loài nhai lại thì buộc phải có nước nhúng lấy
từ lòng non (nặm pịa). Thịt cá ăn tươi thì làm món nộm, nhúng (lạp,
cỏi), ướp muối, thính làm mắm; ăn chín, thích hợp nhất phải kể đến các món chế
biến từ cách nướng, lùi, đồ, sấy, sau đó mới đến canh, xào, rang, luộc... Họ ưa
thức ăn có các vị: cay, chua, đắng, chát, bùi, ít dùng các món ngọt, lợ, đậm, nồng...
hay uống rượu cần, cất rượu. Người Thái hút thuốc lào bằng điếu ống tre, nứa và
chạm bằng mảnh đóm tre ngâm, khô nỏ. Người Thái Trắng trước khi hút còn có lệ mời
người xung quanh như trước khi ăn.
Phương tiện vận chuyển: Gánh là phổ biến, ngoài ra gùi theo kiểu chằng dây
đeo vắt qua trán, dùng ngựa cưỡi, thồ nay. ở dọc các con sông lớn họ rất nổi tiếng
trong việc xuôi ngược bằng thuyền đuôi én.
Quan hệ xã hội: Cơ cấu xã hội cổ truyền được gọi là bản mường hay
theo chế độ phìa tạo Tông tộc Thái gọi là Ðằm. Mỗi
người có 3 quan hệ dòng họ trọng YẾU: ẢI Noong (tất
cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất
cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể). (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một
ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ
của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ
người đến làm rể).
Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ theo tư thế ngồi, nhau bỏ vào ống tre đem
treo trên cành cây ở rừng. Sản phụ được sưởi lửa, ăn cơm lam và kiêng khem một
tháng; ống lam bó đem treo trên cành cây. Có nghi thức dạy trẻ lao động theo giới
và mời Lung Ta đến đặt tên chi cháu.
Lễ tết: Cúng tổ tiên ở người Thái Ðen vào tháng 7, 8 âm lịch.
Người Thái Trắng ăn tết theo âm lịch. Bản Mường có cúng thần đất, núi, nước và
linh hồn người làm trụ cột.
Lịch: Theo hệ
can chi như âm lịch. Lịch của người Thái Ðen chênh với âm lịch 6 tháng.
Học: Người
Thái có mẫu tự theo hệ Sanscrit. Họ học theo lệ truyền khẩu. Người Thái có nhiều
tác phẩm cổ viết về lịch sử, phong tục, luật tục và văn học.
Văn nghệ: Người
Thái có các điệu xoè, các loại sáo lam và tiêu, có hát thơ, đối đáp giao duyên
phong phú.
Chơi: Trò chơi của người
Thái phổ biến là ném còn, kéo co, đua ngựa, dạo thuyền, bắn nỏ, múa xoè, chơi
quay và quả mák lẹ. Nhiều trò
chơi cho trẻ em.
Người Thái Ðen ở Mường Chanh (Sơn La) có nghề làm gốm với
các sản phẩm quen thuộc như nồi đất, chõ đất, đồ đựng chum, vò...
Cót xát rất phổ biến ở vùng người Thái, dùng để trải trên
sàn trước khi xếp chiếu phục tay và các tấm đệm ngủ lên trên. Cót được đan bằng
cây mạy loi, một loại cây thuộc loài tre, nứa mọc trên núi đá vôi cao.
Dệt vải là một nghề thủ công truyền thống lâu đời của người
Thái. Hình ảnh cô gái Thái bên khung cửi, nét đẹp quen thuộc vẫn thường gặp ở mỗi
nhà trong làng bản.
Ðưa tiến bộ kỹ thuật vào cuộc sống đảm bảo sự phát triển bền
vững của các dân tộc. Nuôi cá lồng trên sông, suối là mọt nghề mới mang lại thu
nhập cao.
Cọn nước là cách vận chuyển nước từ chỗ thấp lên chỗ cao để
lấy nước tưới ruộng. Ðỗ là một phát minh quan trọng của các cư dân làm nông
nghiệp vùng thung lũng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét