Dân
tộc Chơ Ro có tên tự gọi là Chrau – Jro, Chrau có nghĩa
là Người hay Nhóm người. Jro có nghĩa là một danh từ riêng chỉ cộng đồng của
họ. Họ còn có các tên khác như:Châu ro, Chro, Chrau, Jơ ro, Dơ
ro.
Theo
Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Chrau-Jro ở Việt Nam có dân số
26.855 người, cư trú tại 36 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Chơ Ro cư
trú tập trung tại các tỉnh: Đồng Nai (15.174 người, chiếm 56,5% tổng số người
Chơ Ro tại Việt Nam), Bà Rịa-Vũng Tàu (7.632 người), Bình Thuận (3.375 người),
Sài Gòn (163 người), Bình Dương (134 người), Bình Phước (130 người).
Trước kia người Chrau-Jro sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy,
cuộc sống không ổn định. Về sau người Chrau-Jro đã biến rẫy thành đất định canh,
đồng thời nhiều nơi phát triển làm ruộng nước, nhờ vậy cuộc sống có phần khá
hơn. Chăn nuôi, hái lượm, săn bắn, đánh cá đều góp phần quan trọng trong đời sống
của người Chrau-Jro. Ngoài ra họ chỉ đan lát, làm các đồ dùng bằng tre, gỗ.
Người Chrau-Jro không theo chế độ mẫu hệ hay phụ hệ mà
coi trọng cả hai như nhau. Trong hôn nhân, tuy nhà trai hỏi vợ cho con, nhưng lễ
cưới tổ chức tại nhà gái, chàng trai phải ở rể vài năm rồi vợ chồng làm nhà ở
riêng.
Khi chôn người chết theo truyền thống Chrau-Jro, người
Chrau-Jro dùng quan tài độc mộc, đắp nắm mồ hình bán cầu. Sau 3 ngày kể từ hôm
mai táng, gia đình có tang làm lễ “mở cửa mả”.
Người Chrau-Jro vốn ở nhà sàn, lên xuống ở đầu hồi. Từ
lâu, người Chrau-Jro đã hoàn toàn quen ở nhà trệt. Trong nhà đồ đạc đơn giản,
chỉ có chiêng và ché được coi là quý giá. Gần đây nhiều gia đình có thêm tài sản
mới như xe đạp.
Cho đến nay, kiến trúc nhà của người Chrau-Jro đã có nhiều
biến đổi căn bản, ngôi nhà cổ truyền không mấy khi tìm thấy trong vùng cư trú
hiện nay của họ. Từ vài chục năm trở lại đây, người Chrau-Jro đã quen xây dựng
những ngôi nhà ở theo lối của người dân nông thôn Việt. Đó là những ngôi nhà có
kèo, bộ khung bằng tre kết hợp với gỗ, phần nhiều lợp bằng cỏ tranh, vách được
thưng lên bằng vách nứa, cửa ra vào mở về phía mái, nhà nằm ngang. Quy mô một
ngôi nhà thường có ba gian và thêm một chái hồi để làm bếp, đồng thời là nơi để
nông cụ. Nét truyền thống còn lại trong ngôi nhà hiện nay của người Chơ Ro là
cái sạp làm bằng tre nứa, chạy dọc theo suốt chiều dài ba gian nhà, bề ngang
chiếm nữa lòng nhà.
Trang phục của dân tộc Chrau-Jro xưa phụ nữ Chrau-Jro quấn
váy, đàn ông đóng khố; áo của người Chrau-Jro là loại áo chui đầu; trời lạnh có
tấm vải choàng. Nay người Chrau-Jro mặc như người Kinh trong vùng, chỉ còn dễ
nhận ra người Chrau-Jro ở tập quán thường đeo gùi theo và ở sở thích của phụ nữ
hay đeo các vòng đồng, bạc, dây cườm trang sức nơi cổ và tay.
Trên những địa bàn cư trú như hiện nay, người Chrau-Jro sống
gần gũi với người Việt nên trong ngôn ngữ của mình, lượng từ tiếng Việt tham
gia ngày càng nhiều hơn, đến nay đại đa số dân cư Chơ Ro đều biết chữ quốc ngữ.
Xu hướng xích lại gần với người Việt được biểu hiện trên nhiều lĩnh vực của đời
sống hàng ngày, các hoạt động sản xuất, các quan hệ xã hội, những biểu hiện văn
hóa vật chất như nhà cửa, y phục, đồ gia dụng,…
Vốn văn nghệ dân gian của dân tộc
Chrau-Jro chỉ còn một vài điệu hát đối đáp trong những dịp lễ hội, họ cất lên lời
khẩn cầu Thần lúa và hiện nay rất ít người biết đến. Các điệu múa mừng lễ hội của
họ có nguy cơ sẽ bị thất truyền. Nhạc cụ của dân tộc Chrau-Jro đáng lưu ý đến
là bộ chiêng đồng 7 chiếc gồm 4 chiếc nhỏ và 3 chiếc lớn. Ngoài ra, đàn ống tre
(Goong Cla), Goong Clog, ống tiêu, sáo dọc còn thường thấy ở vùng núi Châu
Thành.
Sáo dọc, Tiêu, dân tộc Chrau-Jro.
Đàn Goong Cla là nhạc cụ cổ truyền của dân tộc Chrau-Jro,
được chế tác bằng ống tre dài khoảng 40-6-cm, có 5 giây, với thang âm Do, Re,
Fa, Sol, La. Tục truyền rằng, đàn Goong Cla thường được sử dụng những lúc nhàn
rỗi, lúc giữ rẫy hoặc trong lễ hội cồng chiêng…
Dưới đây mình có các bài:
– Văn nghệ dân gian Châu Ro: Cần được bảo tồn và phát huy
– Tìm hiểu lễ hội Sa Yang Va của người Châu Ro tại Phú Lý
huyện Vĩnh Cửu
– Người giữ hồn dân tộc Chơro
– Nhà sàn dài-Kiến trúc độc đáo của người Chơ Ro
– Tục ‘ngủ mèo’ trước hôn nhân của người Chơ Ro”
– Chiếc chiếu Lùn của người Chơ Ro – Đồng Nai
– Phong tục sinh con ở Chòi của người Chơ Ro-Đồng Nai
– Nghiên cứu về trang phục cổ truyền của người Chơ Ro tại
Đồng Nai”
– Tang ma người Chơ ro-Những điều chưa biết
Văn nghệ dân gian Châu Ro: Cần được bảo tồn và phát huy
Văn nghệ dân gian Châu Ro rất đa dạng và phong phú trong
kho tàng văn hoá – văn nghệ dân gian của cộng đồng các dân tộc ít người ở Bà Rịa
– Vũng Tàu. Tuy nhiên, ngày nay lớp nghệ nhân am hiểu về văn nghệ dân gian Châu
Ro đã lớn tuổi, trong khi lớp trẻ vẫn chưa có ý thức kế thừa và phát huy những
giá trị tốt đẹp này. Vì vậy văn nghệ dân gian Châu Ro không nằm ngoài khả năng
bị thất truyền.
Nét đẹp Châu Ro
Trong số ít cộng đồng dân tộc thiểu số đang sinh sống
trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, người Châu Ro được được xem là những cư
dân có mặt từ rất sớm và có số lượng đông nhất, với khoảng 1.500 hộ và gần
8.000 nhân khẩu. Từ sự định hình và phổ biến những chuyện kể dân gian, những
bài dân ca ru em hay các điệu chiêng đồng, các điệu múa thông qua các kỳ lễ hội
trong lao động sản xuất và sinh hoạt thường ngày, văn nghệ dân gian của đồng
bào Châu Ro đã góp phần tạo nên một diện mạo văn hoá – văn nghệ của cộng đồng
các dân tộc ít người trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thêm đa dạng và phong
phú. Một trong những loại hình văn nghệ được người Châu Ro yêu thích nhất là
múa dân gian. Từ những tục cúng Thần cầu bình an, sức khoẻ đến cúng tạ ơn trời
cho hạt lúa, hạt ngô đầy nhà, hoa trái bội thu… đã nảy sinh ra những điệu múa
mang đậm sắc thái tín ngưỡng.
Các vũ điệu của đồng bào dân tộc Chrau-Jro
cần phải được bảo tồn và phát triển
Đối với người Châu Ro thì cồng chiêng luôn là loại nhạc cụ
gắn liền với múa. Tiếng cồng chiêng phát ra những âm giai, âm sắc nhịp nhàng, đều
đặn. Mỗi điệu múa tuy có khác nhau về ý nghĩa và cách thức biểu diễn, song nền
âm nhạc ấy vẫn không thay đổi nhiều, chủ yếu làm nhiệm vụ tạo không khí và giữ
nhịp cho người múa, làm toát lên cái hồn của điệu múa. Trong những buổi sinh hoạt
cộng đồng, khi có tiếng cồng chiêng cất lên thì mọi người không thể không bước
vào sân để cùng múa, cùng giao lưu. Qua từng động tác múa mộc mạc, đơn sơ như
hai tay đưa lên ngang vai, cổ tay cuộn vào, cuộn ra, chân bước đều kết hợp với
nhún nhảy nhẹ nhàng, đầu nghiêng qua lại… Mọi người đi đều thành vòng tròn, có
khi lại xoắn xuýt nhau theo từng đôi, từng nhóm rồi cuối cùng trở lại đội hình
vòng tròn. Đi đôi với múa thường là các nhạc cụ độc đáo như: Kèn bầu (cầm vuột),
chiêng đồng, đàn tre, đàn môi, đàn goong choloq…
Ngoài múa, biểu diễn nhạc cụ, văn nghệ dân gian Châu Ro
còn nổi bật với các hình thức hò đối đáp, diễn xướng. Với hò đối đáp, người
Châu Ro thường dùng lời thơ để đối đáp nhau giữa nam và nữ. Còn diễn xướng của
dân tộc Châu Ro là một hình thức kể chuyện có diễn ngâm với mục đích tạo sự tập
trung của người nghe và làm cho chuyện kể hấp dẫn hơn.
Đàn Goong Clog – Bà Lý Thị Nhiễn (chủ
nhiệm CLB cồng chiêng Nhà văn hoá dân tộc Bàu Chinh) hướng dẫn cho bạn trẻ người
Chrau-Jro cách sử dụng các loại nhạc cụ dân tộc Chrau-Jro.
Cần được bảo tồn và phát huy
Văn nghệ dân gian Châu Ro rất đa dạng, phong phú nhưng do
cuộc sống du canh, du cư và không có chữ viết riêng nên hiện nay hoạt động văn
nghệ dân gian Châu Ro ở Bà Rịa – Vũng Tàu đã phần nào mờ nhạt. Và thực tế, thế
hệ những người am tường về văn nghệ dân gian Châu Ro đã ở tuổi “cổ lai hy”,
trong khi đó khó tìm được một bạn trẻ dân tộc Châu Ro có ý thức kế thừa và phát
huy các giá trị của dân tộc mình trong đời sống mới. Anh Sinh Văn Thành, một
thành viên trong đội văn nghệ dân tộc Châu Ro (huyện Châu Đức) cho biết: “Bên
huyện khuyến khích thanh niên Châu Ro đi học tập, truyền đạt các bài dân ca,
dân vũ, hướng dẫn cách sử dụng các loại nhạc cụ, cồng chiêng… nhưng công việc
gia đình bề bộn, đi làm nương, làm rẫy về mệt rồi, có thời gian đâu mà tập luyện”.
Vì vậy, văn nghệ Châu Ro không nằm ngoài khả năng bị thất truyền.
Dấu hiệu của sự thất truyền có thể thấy, nhạc cụ của dân
tộc Châu Ro thì nhiều nhưng hiện nay chỉ còn 4 loại nhạc cụ được người Châu Ro
biết làm và biết sử dụng là: Chiêng đồng, đàn tre, đàn môi và đàn goong choloq.
Về dân vũ, hiện nay còn rất ít người Châu Ro hiểu và nhớ được hết các điệu múa
dân gian. Hiện nay còn ít nghệ nhân còn nhớ được khoảng 7 điệu múa dân gian
nguyên mẫu: múa cấy lúa, múa sàng gạo, múa giã gạo, múa bà bóng, múa theo bà
bóng lên đồng, múa đánh chiêng và múa sáng trăng.
Nhằm thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá
giai đoạn 2001 – 2005, năm 2002, ông Võ Văn Tư, Giám đốc Trung tâm Văn hoá tỉnh
đã khảo sát, sưu tầm và thực hiện đề tài “Văn nghệ dân gian Châu Ro trong tỉnh
Bà Rịa– Vũng Tàu” có sự tham gia góp ý của các già làng, trưởng bản, nghệ nhân
và các cá nhân am hiểu về văn hoá dân tộc Châu Ro. Ông Võ Văn Tư bày tỏ: “Những
gì còn sót lại trong mảng văn nghệ dân gian Châu Ro mà chúng tôi sưu tầm được
tuy chưa đầy đủ nhưng cũng là những sản vật quý ở cả hai ý nghĩa lịch sử và nội
dung”. Sau khi thực hiện đề tài nghiên cứu, ông đã biên soạn thành các tư liệu
phim về lễ hội Nhang rừng, Nhang lúa và bài dân ca, dân vũ, các loại nhạc cụ đã
được nhóm nghiên cứu tuyển chọn, đóng tập và ghi vào băng hình phát cho các
Trung tâm Văn hoá – Học tập cộng đồng xã có đồng bào dân tộc Châu Ro sinh sống
để chiếu phục vụ bà con.
Nhưng từ năm 2002 đến nay, văn nghệ dân gian Châu Ro dường
như vẫn còn rất im ắng ngoại trừ một số tiết mục được trích từ đề tài sưu tầm,
nghiên cứu của ông Võ Văn Tư để dàn dựng tham gia các hội thi hát múa dân tộc
do Sở Văn hoá– Thể thao và Du lịch tỉnh tổ chức hai năm một lần; các hội thi
nghệ thuật quần chúng khu vực miền Đông Nam bộ lâu lâu mới có dịp tổ chức… Cũng
từ năm 2002, Nhà văn hoá dân tộc Bàu Chinh (huyện Châu Đức) chính thức đi vào
hoạt động, trở thành nơi sinh hoạt văn hoá, phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí của
đồng bào Châu Ro. Bên cạnh việc trưng bày các hiện vật, hình ảnh, Nhà Văn hoá
dân tộc Bàu Chinh còn là nơi truyền dạy cách đánh cồng chiêng, cách làm và chơi
các loại dụng cụ, nhạc cụ dân tộc, tổ chức sinh hoạt múa hát các làn điệu truyền
thống mỗi tháng vài ba lần. bà Lý Thị Nhiễn, Chủ nhiệm CLB Cồng chiêng Nhà Văn
hoá dân tộc Bàu Chinh (huyện Châu Đức) cho biết: “Ngày nay, con trai, con gái
trong làng ít đứa muốn học đánh cồng chiêng; người của làng bỏ thú vui làm kèn
bầu, kèn lá, làm đàn… Kiểu thổi kèn gọi bạn tình bên suối ngày xưa, đã vắng
bóng. Không giống như trước đây, gần như người dân Châu Ro nào cũng biết đánh cồng
chiêng, già trẻ, gái trai đều biết vài điệu ru, dùng một loại nhạc cụ nào đó”.
Tìm hiểu lễ hội Sa Yang Va của người Châu Ro tại Phú Lý huyện Vĩnh
Cửu
1. Tên gọi và nguồn gốc:
Tiếng Châu Ro gọi là lễ Sa Yang Va / nghĩa là cúng Thần
lúa/ mừng lúa mới. Nguồn gốc của lễ hội theo một số già làng cho biết được truyền
từ bao đời nay. Cộng đồng người Châu Ro cứ theo thông lệ hằng năm thì tổ chức
cúng theo kiểu “ xưa bày nay theo ”. Trước đây, lễ cúng Sa Yang Va được người
Châu Ro cúng theo định kỳ hàng năm. Thời gian cũng không ấn định cụ thể nhưng
thường trong khoảng từ tháng hai đến tháng ba âm lịch, vào những ngày trời đẹp,
đêm có trăng sáng. Đây là lễ hội lớn nhất của cộng đồng và để lại những dấu ấn
về lễ nghi nông nghiệp của người Châu Ro. Trước đây, khi tính cộng đồng còn chặt
chẽ, thể chế nhà dài tồn tại, người Châu Ro tổ chức cúng Sa Yang Va tại đây. Lễ
hội cúng Sa Yang Va thường kéo dài trong nhiều ngày đêm. Mọi người trong buôn
làng đều tham dự. Những người thầy cúng giữ vai trò hành lễ trong các nghi thức.
Lễ cúng được tổ chức với mục đích tạ ơn thần lúa đã ban
phúc cho gia đình một mùa bội thu. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy trong nội
dung lời khấn của lễ Sa Yang Va nhắc nhiều đến đối tượng như các loại thần
linh, tổ tiên và mang tính chất cầu an, cầu phúc cho cộng đồng, dòng tộc, gia
đình hay cá nhân.
Hiện nay, lễ cúng Sa Yang Va ít được người Châu Ro ấp Lý
Lịch tổ chức do nhiều nguyên nhân nhưng sâu sa nhất là do đời sống kinh tế khó
khăn. Thường chỉ có gia đình già làng Nguyễn Văn Nổi, Hồng Thị Lịch tổ chức.
Thông thường những lễ cúng cúng Sa Yang Va tại đây được các cấp chính quyền,
các ban ngành hỗ trợ nhiều mặt. Lễ cúng thực hiện đầy đủ những nghi thức cổ
truyền và thu hút không chỉ cộng đồng người Châu Ro mà cả các thành phần dân tộc
khác tại địa phương đến tham dự.
2. Công tác chuẩn bị cho một lễ cúng cúng Sa Yang Va
Địa điểm: Thông thường
lễ hội diễn ra tại nhà của người Châu Ro mà hai điểm chính là ngôi nhà sàn và
kho lúa của gia chủ. Một số địa điểm liên quan là rẫy lúa, rẫy mì và các nơi
khác trong rừng khi người Châu Ro chuẩn bị các thứ cần dùng đến trong buổi lễ.
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy ba địa điểm chính, quan trọng tạo nên tuyến
tình của lễ cúng Sa Yang Va này là: Rẫy lúa, Nhà sàn và Kho lúa.
Chùm lúa rẫy: Tại khu
rẫy trồng lúa, khi thu hoạch mùa màng, người Châu Ro để lại một vạt lúa tốt có
những bông lúa trĩu hạt. Những bông lúa tốt được bó lại bằng tranh, rơm, lá chuối
và rào bốn bên bằng các loại gai bằng tre, cây cối để bảo vệ. Vạt lúa cây vẫn sống,
bông lúa nhiều hạt và chín vàng. Theo quan niệm của người Châu Ro thì hồn lúa rẫy
trú ngụ tại đây và chờ cho đến khi họ tổ chức lễ Sa Yang Va thì rước về. Nghi
thứ rước hồn lúa là nghi đầu tiên trong lễ cúng Sa Yang Va và rất quan trọng.
Bàn thờ Nhang
Cây nêu: Khi tổ chức
cúng Sa Yang Va, người Châu Ro thường làm một cây nêu đặt trước sân nhà sàn –
nhà có bàn thờ nhang chính, diễn ra lễ cúng đồng thời khoảng sân để tổ chức đốt
lửa và sinh hoạt cộng đồng khi đêm xuống.
Cây nêu được làm từ cây vàng nghệ (SơrBrơ)– một loại cây
trong rừng, có thân suông, thẳng. Đặc biệt, loại cây này khi bào vỏ thì có màu
vàng nghệ rất đẹp. Lá của cây xanh, dài và thon, nhọn đầu (giống như lá xoài).
Trái của cây vàng nghệ nhỏ vừa, có dạng hình bầu tròn và dài nhọn đầu như trái
cau, phía cuống có lớp bao bọc tạo thành như một cái nắp đậy. Lá và vỏ cây thường
được người Châu Ro đem giã để suốt cá.
Khi chặt cây vàng nghệ đem về, người Châu Ro chọn phần
suông, thẳng để làm cây nêu. Thường thì đoạn gốc dài trở lên khoảng 5 mét. Người
Châu Ro đặt cây vàng nghệ với phần gốc chạm đất và phần ngọn cao lên vừa tầm
người làm qua một chạng đỡ có hai cây bắt chéo nhau. Thân cây vàng nghệ được
bào nhẵn bốn phía, phía gốc to và thon dần lên phía ngọn.
Trang trí trên thân cây nêu: Khi
thân cây vàng nghệ được bào nhẵn, người Châu Ro dùng vôi và củ nghệ tươi bôi đều
từ gốc đến ngọn. Thân cây thấm nước vôi và màu vàng của nghệ tạo cho cây có màu
vàng tươi thêm và giữ được màu sắc trong thời gian dài.
Người Châu Ro dùng lá buông khô, tước đi những gân lá để
buộc vào thân cây vàng nghệ. Cách quấn theo hình chéo nhau từ dưới gốc lên đến
ngọn, tạo những khoảng trắng hình thoi đối xứng, uốn theo thân cây. Khi buộc lá
buông thì chừa đoạn gốc khoảng 1 mét.
Sau đó, người Châu Ro dùng đèn dầu chai. Những cục nhựa từ
cây dầu chảy ra, khô lại được người Châu Ro quấn trong lớp lá dứa tạo thành khối
hình ống tròn (tựa như đòn bánh tét). Đòn dầu chai được đốt lên cho khói rất
nhiều. Người Châu Ro hơ vào thân cây từ gốc lên ngọn và phải trải qua một thời
gian rất dài. Đây là công đoạn làm khá tỉ mỉ để giữ cho thân cây có một màu
khói ươm vào đều khắp. Khi hun khói xong thì người Châu Ro gỡ lớp lá buông quấn
ra. Những nơi trên thân cây vàng nghệ có lá buông quấn sẽ tạo thành nếp sáng giữ
màu so với những mảng đen bị khói hun ám vào. Thân cây vàng nghệ có đường nét
hoa văn với các hình thoi đen và đường dây trắng liên tục nối chéo nhau.
Trên ngọn của cây nêu, người Châu Ro làm một giỏ hình cái
phểu. Để làm giỏ này, người Châu Ro dùng mây buộc chặt một phần của ngọn (cách ngọn
khoảng 2 tấc) và chẻ từ ngọn xuống chỗ buộc làm 8 phần rồi nẻ ra. Sau đó, chọn
thêm 10 thẻ tre bằng nhau tạo thành hình cái giỏ có 18 phần thẻ bằng nhau. Các
thẻ này được bện kết với nhau bằng lạt mây rừng. Từ chỗ buộc dây tạo dáng hình
phểu được mở rộng dần lên tạo thành một cái giỏ lớn. Trên vành miệng giỏ, người
Châu Ro trang trí 36 chùm tia. Các chùm tia này làm từ cây vàng nghệ. Ban đầu
người Châu Ro chặt từng đoạn thẳng bằng nhau được bào vỏ khá kỹ càng. Đoạn cây
gỗ vàng nghệ hình chữ nhật. Một đầu đoạn cây gỗ giữ nguyên làm gốc. Người Châu
Ro dùng dao côi chẻ tia từ đầu ngọn vào tạo nên một chùm tia với các lát dát mỏng
hình vòng cung xoắn đều. Các chùm tia được gắn vào với phần gốc trên vành giỏ,
chùm tia tỏa xuống phía dưới và ra bốn bên đều nhau tạo hình bông lúa lớn rất đẹp.
Từ tâm chính của giỏ buộc một đoạn cây tre ngắn cao vượt
lên vành giỏ khoảng 40 tấc. Trên đoạn tre này buộc một khoanh bông gòn và trên
cùng là chùm lúa chín, nhiều hạt. Trên vành miệng giỏ người Châu Ro trang trí 4
tia hơi ngả ra phía ngoài, đối xứng với qua đoạn cây tre cột chùm lúa chín. Các
tia này cũng làm từ thân cây vàng nghệ. Trên thân các tia mỗi đoạn được vạt dồn
những dăm bào xoắn dính liền từng nấc cho đến phần ngọn. Đầu hai tia cột một ít
lông gà và hai tia còn lại buộc mỗi tia hai dát bông bào mỏng, dài của thân cây
vàng nghệ tượng trưng cho lông đuôi của chim chèo bẽo (trước đây người Châu Ro
gắn lông đuôi của loài chim chèo bẽo). Từ 4 tia này được cốt nối kết bằng các sợi
chỉ qua lại đan xen nhau và trên các sợi chỉ gắn trang trí những cục bông gòn
nhỏ.
Từ ngọn cây nêu trở xuống khoảng 6 tấc, người Châu Ro đục
bốn lỗ vào thân cây. Tại bốn lỗ này đạt vào bốn thẻ nêm bằng nhau, từ thân cây
chính đối xứng ra bốn hướng. Các thẻ nêm cũng làm từ cây vàng nghệ, mỗi thẻ dài
khoảng 2 tấc và rộng khoảng 0,5 tấc. Trên các miếng thẻ nên phía đầu ngoài có
khoét sẵn một lỗ tròn nhỏ. Bốn lỗ trên thẻ nêm dùng để gắn bốn cây nêu nhỏ.
Từ chỗ các thẻ nêm phía trên xuống phía dưới thân cây khoảng
6 tấc có thêm bốn lỗ đục âm vào thân cây. Tại đây cũng gắn các thẻ nêm như phần
phía trên nhưng các thẻ nêm có kích cỡ to hơn.
Trên các thẻ nêm trên toàn thân cây nêu có 8 cây Nhang nhỏ.
Những cây Nhang nhỏ này cũng được làm từ cây vàng nghệ. Cách thức làm cây Nhang
nhỏ và cách trang trí trên nó cũng giống như làm cây nêu lớn nhưng kích cỡ nhỏ
hơn. Mỗi cây nêu nhỏ dài khoảng 1 mét. Cây Nhang nhỏ chỉ có phần giỏ phía trên
và thân dài nhọn đầu dần về phía gốc, hoa văn được tạo hình như cây nêu. Các phần
bài trí trên cây nêu nhỏ tuân thủ theo số chẳn, như: 8 thanh làm giỏ, 14 hay 16
chùm tia và 4 tia trên vành. Điều khác biệt so với cây nêu chính là trên các giỏ
cây Nhang nhỏ không có gắn chùm bông lúa. Các cây Nhang nhỏ được gắn vào các
nêm chốt có phần ngọn đưa lên 1 phần và 2 phần gốc hướng về gốc cây nêu chính.
Từ các phần gốc cây Nhang nhỏ buộc những lát thân cây vàng nghệ dài, xoắn, dát
mỏng thả xuống; phía trên thân và đuôi các lát dát mỏng buộc các nếp bông gòn
nhỏ.
Khi cây nêu được làm xong, người chủ nhà khấn Yang và cho
trai làng dựng cây nêu trước khoảng sân nhà sàn. Tại chỗ dựng gốc nêu chôn một
đoạn gốc có chạng chĩa làm đôi để giữ và buộc dây mây vào khoảng gốc khoảng 5 tấc.
Cây nêu có ba tầng nấc chính. Trên cao là chùm lúa nhiều
hạt vươn lên với vai trò chủ thể cúng của người Châu Ro. Hai tầng nấc cây nêu
nhỏ trên thân cây nêu chính tượng trưng cho thần linh và tổ tiên. Cây nêu được
dựng lên như một nghi thức có tính chất trình báo về lễ cúng mà người Châu Ro
quan niệm Yang lúa và các thần linh, tổ tiên biết được để đến dự. Cây nêu là biểu
hiện sự giao cảm, giao hoà giữa con người Châu Ro với thần linh, với tổ tiên.
Rượu cần
Bánh dày: Một trong những
công việc người Chơro chuẩn bị cho lễ cúng Nhang lúa là làm món bánh dày. Bánh
dày (Pin pu) được thực hiện vào trước lễ cúng một ngày. Trước tiên, người Châu
Ro ngâm gạo nếp trong nước khoảng nửa ngày, sau đó vớt ra cho vào chõ hấp chín.
Trong khi chờ xôi chín, người ta tiếp tục công việc rang mè đen. Liều lượng cứ
một lon mè cho 4 lít nếp.
Muốn cho mè chín đều, người ta để chảo thật nóng trên bếp
lửa, sau đó múc mỗi lần độ hai chén mè cho vào chảo để rang. Mè được khuấy
nhanh, đảo qua đảo lại cho thật đều để mè chín nhưng không bị cháy. Trong quá
trình rang mè, người Châu Ro rắc vào chảo một ít muối.
Khi mè chín, người Châu Ro cho vào cối giã nhuyễn. Mè giã
lúc còn nóng thì sẽ giòn và mau nhuyễn. Trong khi giã, người Châu Ro rắc thêm một
ít muối trộn lẫn với mè. Công việc rang và giã mè đều do những người phụ nữ
Châu Ro đảm nhiệm. Thường một cối giã có ba người thực hiện.
Người Châu Ro quết một lớp mè trong cối sau đó cho xôi
chín vào thực hiện việc quết bánh. Mỗi cối quết bánh do hai hoặc ba người giã,
một người canh giữ để trở bánh cho đến khi nếp dẻo mịn. Trong khi giã, người
Châu Ro rắc thêm bột mè đen để nếp không dính vào cối. Những người cầm chày giã
mạnh. Khi bánh mềm dẻo thường bám vào chày giã. Người canh bánh phải lấy ra và
đập mánh vào cối.Mỗi cối quết trong khoảng thời gian 20 phút. Bánh dày quết
xong rất dẻo và mịn, có màu xám tro của mè đen. Bánh được vỗ tròn mỏng, đường
kính mỗi ổ bánh khoảng 20- 25 cm, dày 2 – 3 cm. Người Châu Ro dỡ bánh bỏ lên lá
chuối có rắc sẵn bột me, chồng các ổ bánh lên với nhau. Khi thực hiện nghi thức
cúng Yang thì đem bánh dày (thường nguyên một ổ đặt lên bàn Nhang). Sau khi
cúng xong, bánh dày được làm sẵn được người Châu Ro cắt ra từng miếng nhỏ vừa để
đãi khách. Bánh dày có thể ăn không hoặc ăn với các thứ thịt nướng. Bánh dày có
thể giữ được lâu trong khoảng 10 ngày. Khi mặt bánh khô, người Châu Ro dùng dầu
chiên để ăn.
Cơm lam: Người Châu Ro
lấy nếp cho vào ống tre lồ ồ cưa sẵn. Ống tre dài thường là một lóng . Khi cho
gạo (có thể thêm một ít hạt mè)và nước vào thì lấy lá chuối hoặc các lá cây rừng
nhét lại. Dựng ống tre vào bếp lửa có cây ngang nấu cho đến khi chín. Sau đó,
chẻ ống tre ra hoặc cắt khúc thành từng đoạn nhỏ. Thường vỏ ống tre được vuốt bớt
đi để thân mền phía trong. Khi ăn, có thể dùng tay bóc nhẹ lớp vỏ ống mỏng, lấy
cơm lam từng khúc nhỏ. A8n cơm lam thường chấm với muối mè.
Đọt mây: Mây là loại
dây leo, thân nhiều lớp vỏ có gai nhọn. Rừng miền Đông Nam Bộ có rất nhiều mây
nhưng mây dài và có ngọn non thường mọc trong các khu rừng sâu, ít bị khai phá.
Nhựng dây mài dài to, xanh mướt thường có phần ngọn trắng mềm với vị ngọt. Người
Châu Ro thường chặt những đọt mây để nướng hay nấu canh. Trong ngày lễ cúng Sa
Yang Va, đọt mây được chặt về dùng để nướng đãi khách. Thời gian đi chặt đọt
mây với số lượng nhiều phải mất từ hai đến ba ngày. Người Châu Ro chặt nguyên
ngọn mây và tuốt bỏ gai đem về. Đến ngày cúng lễ mới đem ra lột lớp vỏ cứng
ngoài nhưng vẩn giữ những lớp vỏ mỏng bên trong để nướng. Đọt mây nướng trên
than hồng sẽ cháy sém phần vỏ mỏng làm cho đọt non bên trong chín mềm. Khi độ
chín đủ, người Châu Ro lột lớp vỏ mềm và lất đột mây non cắt khúc dọn mời
khách. Đọt mây chín có mùi thơm béo và độ ngọt thanh.
Củ chụp: Cây cho củ có
bột là một loại thân dây leo, phía dưới có dạng củ nằm sâu trong lòng đất (từ
0,5 m trở đi) chứa rất nhiều bột mà đồng bào thiểu số đã biết dùng thay cho gạo.
Thường mỗi dây cho củ lớn từ 0,5 kg – 5kg. Người dân tộc thiểu số hay dùng cây
tre dài, chẻ đầu tua nhọn hình vòng dạng cái chụp để đào củ nấu ăn khi nương rẫy
thất bát nên gọi là củ chụp. Ở vùng rừng Phú Lý, hiện nay củ chụp được đào
trong những khu rừng rất xa nơi đồng bào Châu Ro sinh sống. Củ chụp được đào về
và gọt vỏ để bỏ trong ống tre lồ ô nướng đãi khách trong ngày lễ hội cúng Sa
Yang Va.
Đọt mây.
Củ nần: Củ nần từ một
loại dây leo như loại dây khoai mỡ, lá hình thoi, thường 1 cuống có ba lá chõi
ra, rễ hình thành dạng củ. Dây nần càng lâu năm thì củ càng to nhưng qua thời
gian dài thì củ tự tiêu để đâm ra những chùm rễ mới. Từ những rễ mới lại hình
thành nên các củ khác. Dạng củ nần phát triển lúp búp trên mặt đất quanh dây, nửa
âm dưới mặt đất, nửa trồi lên phấn cuống củ. Củ nần có màu trắng – vàng chứa
nhiều tinh bột. Người Châu Ro trước đây dùng củ nần để ăn trong những lúa thiếu
lương thực. Củ nần được xắc mỏng bỏ vào ché, cứ một lớp lát củ nần thì xen kẻ
lá bứa để ngâm. Sau bảy ngày đêm ngâm đem ra suối nhồi nước cho hết màu nước đục
để mất các độc tố trong lượng bột và nấu để ăn. Trong lễ cúng Sa Yang Va, củ nần
được đào về gọt vỏ và ngâm trước với muối. Sau đó, chẻ lát bỏ vào ống tre với
nước để nấu làm thức ăn đãi khách
Củ mì: Loại củ cho nhiều
tinh bột. Cây thẳng, thân có nhiều mắt. Thường được người Châu Ro trồng quanh
nhà hay trên rẫy. Loại củ mì có nhiều loại khác nhau. Thường chuẩn bị cho lễ hội,
người Châu Ro đào củ mì có thân màu trắng, vỏ củ màu trắng (có nơi gọi là mì
bún) đem về lột vỏ và ngâm nước. Sau đó xắc lát cho vào ống tre lồ ô để nấu
chín, đãi khách sau khi cúng.
Lá bép: Còn gọi là rau
diếp. Đây là loại rau mọc trong rừng sâu, thường cách xa nơi người Châu Ro sinh
sống. Lá bếp có màu xanh và tím…… Thường người Châu Ro hái về trước một ngày. Tại
Lý Lịch, người phụ nữ Châu Ro đi hái lá bếp mất một ngày trời vì rừng xa và phải
hái với số lượng nhiều để nấu canh hay nướng. Cách nướng lá bếp khá độc đáo.
Người Châu Ro nhúng lá bếp vào nước sau đó rảy nhẹ cho nước bớt lại. Họ xếp chồng
lá bếp vào một ít lớp lá chuối và bó lại vuông vức, buộc dây. Sau đó mỗi vuông
bó lá bếp được kẹp vào nẹp tre nướng trên than lửa hồng. Mất một khoảng thời
gian không lâu thì lá bếp được nướng chín. Họ mở ra và đãi khách. Lá bếp nướng
ăn bốc bằng tay. Lá chín mềm, có vị thanh mát. Còn lá bếp dùng nấu canh thì người
Châu Ro cho vào nồi đun sôi sau đó nêm gia vị (muối) vừa mứa để có vị mặn và ngọt
vừa nếm. Một loại canh mà người Châu Ro trong bữa cơm trước đây thường dùng.
Lá bép
Đan chiếu dứa: Chiếu dứa
được người Châu Ro đan để sử dụng cho nhu cầu nghỉ ngơi hằng ngày. Trong lễ hộ
cúng Yang lúa, người Châu Ro đan chiếu dứa để những người tham gia ngồi làm các
lễ vật cúng, thức ăn hay đánh cồng chiêng, hát, thổi khèn, kèn…
Cây dứa rừng có lá dài và mềm, dẻo. Người Châu Ro hái lá
dứa, tuốt phần gai trên lá và phơi 4 ngày. Qua bốn ngày nắng phơi nắng, sương,
lá dứa mềm lại và người Châu Ro bắt đầu đan chúng thành những tấm chiếu. Cách
đan theo thể đan long mốt, tức xỏ đan theo kiểu lồng ghép theo thứ tự trên dưới
các dây với nhau. Các sợi lá dứa có bề rộng khoảng 1 phân. Chúng được đan chèn
nối tiếp nhau theo nhiều lần tạo thành tấm rộng. Hướng đan từ trong ra ngoài và
kết thúc thường ở các góc hình chữ nhật của chiếu. Người đan bẻ góc lận vào dấu
đầu mối của sợi dây. Tấm chiếu dứa thường có kích cỡ rộng 6 tấc, dài 1mét dùng.
Hiện nay, tại ấy Lý Lịch, bà Hồng Thị Trang (67 tuổi) đan được loại chiếu này.
Chiếu dứa được người phụ nữ Châu Ro tham gia lễ hội dùng chỗ nghỉ ngơi hay làm
các công việc chuẩn bị thức ăn.
Heo: Loại heo người
Châu Ro dùng để cúng trong lễ Sa Yang Va là loại heo cỏ. Trước đây, mỗi gia
đình người Châu Ro thường hay nuôi loại heo này và khi nhà tổ chức lễ cúng thì
họ đem heo làm lễ vật. Nều nhà không nuôi thì có thể đi mua từ nơi khác. Con
heo không có quy định cụ thể nhưng khi dùng để cúng phải có những đặc điểm như:
Toàn thân phải đen (không có vết loang lỗ các màu khác), thường là từ 10 kg trở
lên, heo không bị khuyết tật hay bệnh.
Gà: Loại gà trống của
nhà nuôi hoặc mua. Không quy định cụ thể nhưng gà dùng cúng thường mạnh khoẻ,
có dáng vóc đẹp và nhanh nhẹn, thịt nhiều. Gà dùng làm thịt lấy huyết bôi để thực
hiện một số nghi thức tiết tế và làm lễ vật bày cúng tại bàn thờ Nhang.
Thịt thú rừng: Trước
đây, mỗi khi tổ chức lễ cúng Sa Yang Va thì nhà ngươi chủ thường cho nguời thân
đi săn thú rừng nhiều ngày. Nhiều loại thú rừng săn được sẽ lấy thịt dùng chế
biến các món để đãi khách. Các loại thú nguời Châu Ro thường săn được là heo,
cheo, thỏ, chồn, mễn, khỉ hay các loại chim…Thường mỗi khi săn được con thú
nào, làm thịt thì người Châu Ro thường giữ lại bộ xương hàm để treo trong nhà.
Tại nhà già làng Năm Nỗi, trên mái nhà trước bàn thờ Nhang có treo một dãy dài
những hàm của con thú rừng mà người thân trong nhà săn được. Ngày nay, nhà nước
quy định cấm cửa rừng và bảo vệ động vất hoang dã nên người Châu Ro không có cơ
hội săn thú rừng lấy thịt cho đãi khách trong lễ hội.
Chinh: Người Châu Ro
còn gọi là Đồng la. Hiện nay, già làng Nguyễn Văn Nổi còn giữ được bộ chinh ở ấp
Lý Lịch xã Phú Lý huyện Vĩnh Cửu. Sử dụng bằng cách đeo đánh bằng tay. Người
đàn ông hoặc người phụ nữ đều có thể đánh được. Trong phối đánh không phân biệt
giới nhưng theo thứ tự. Tùy theo những nội dung thể hiện mà những người biết
đánh sắp theo thứ tự để thể hiện. Trước đây, trong cộng đồng Châu Ro, chỉ có những
gia tộc, gia đình có điều kiện kinh tế khấm khá mới sắm được bộ nhạc cụ này.
Chinh được sử dụng trong các lễ hội cổ truyền, tiết tết của người Châu Ro. Loại
hình nhạc cụ phối hợp diễn tấu tập thể.
Chinh là bộ nhạc cụ có bề mặt tròn, trơn phẳng. Bộ gồm 6
chiếc. Mỗi bộ chinh ở từng cộng đồng Châu Ro có khác nhau về dàn và định âm, chức
năng riêng biệt.
Chất liệu làm nên bộ chinh bởi kim loại đồng. Khi có vật
tác động vào tạo nên tiếng vang lớn, ngân dài. Khi sử dụng, người Châu Ro dùng
nắm bàn tay tác động lên bề mặt trơn phẳng theo từng giai điệu tiết tấu âm
thanh, nhằm tạo ra âm chuẩn. Đồng thời tay cón lại cũng đóng vai trò quan trọng
trong việc phối hợp diễn tấu. Bàn tay đặt dưới mặt lòng chinh lúc úp vào hay
xòe đỡ với những cách ấn vào đỡ nhẹ hay thả ra (bấm hay buông) để xử lý sắc
thái âm thanh lơn, nhỏ, trầm bổng theo giai điệu mà nội dung cần thể hiện.
Tính năng của Chinh rất quan trọng. Đây là loại nhạc cụ
không thể thiếu trong lễ hội cổ truyền của người Châu Ro. Về mặt xã hội thì người
nào biết tấu chinh hay sở hữu bộ chinh cũng là niềm tự hào trong cộng đồng.
Chinh là loại nhạc cụ có lợi thế về tạo nên giai điệu hơn hẳng với Chiêng
(Goong). Trong dàn chinh, người Châu Ro có thể chọn ra một bộ 3 chiếc để cho ngững
người tấu chinh thi tài với nhau.
Chiêng: Còn gọi
là Goong. Nhạc cụ Chiêng gồm nhiều bộ như bộ có 5 chiếc, 6
chiếc hoặc 7 chiếc. Loại nhạc cụ này trên mặt phẳng đánh có núm tròn nhô lên.
Đây là loại nhạc cụ khá phổ biến và quan trọng được người Châu Ro dùng trong
các dịp lễ hội cộng đồng, trong lễ của chu kỳ vòng đời người như tang ma, lễ cưới.
Người phụ nữ Châu Ro thường sử dụng loại nhạc cụ này. Họ treo lên thành từng
dàn, có thể trong tư thế đứng hoặc ngồi mà đánh. Thông thường mỗi dàn chiêng có
khác nhau về định âm thang âm, kích cỡ và cách quãng. Bộ chiêng được phân định
chiêng mẹ đến chiêng con (chiêng lớn đến chiêng nhỏ). Tác động lên u núm để tạo
âm thanh trên chiếc Chiêng người Châu Ro dùng đọan thanh gỗ, thân cây gòn, cây
tầm phúc nhưng tốt nhất là các thân dây mây, chắc, dẻo bền. Nếu dùng cây gỗ khô
đẩ đánh thì người Châu Ro thường buộc quấn vào đầu cây một lớp vải để khi đánh
vào giảm độ vang chói của kim loại.
Về mặt xử lý âm thanh, sắc thái của nhạc cụ Chiêng tương
tự như nhạc cụ Chinh. Chỉ khác nhau về vai trò tay trái khi tác động để tạo âm
lớn, nhỏ trong sáng hay mờ của Chiêng không được thuận tiện như Chinh. Lòng
chinh trơn nên những động tác tạo âm (bấm, buông) trong lòngcòn Chiêng do có
lõm trong tạo u núm mặt trên nên người đáng tạo âm theo chuẩn tiết tấu bằng
cách nắm, buông trên vành.
Chất liệu làm nên bộ Chiêng chủ yếu bằng kim loại, trong
đó đồng đóng vai trò chủ đạo. Mỗi chiếc Chiêng có độ nặng nên khi diễn tấu thường
được đặt vị trí cố định. Có hai tư thế khi đánh Chiêng: đánh trong tư thế ngồi
trong các lễ hội cổ truyền, đánh trong tư thế đứng trong lễ tang ma. Cũng có một
số trường hợp, người Châu Ro đeo Chiêng vào vai, mỗi người một chiếc tạo hình
vòng tròn vừa đi vừa tấu. Trong tư thế này, người tấu chiêng dùng nắm bàn tay để
gõ vào u núm chiêng. Thông thường chỉ tấu được 3 bài là phải nghỉ để lấy sức.
Nhưng trên thực tế, những quy định này ngày nay không còn giữ như trước đây. Những
bài tấu trong lễ hội có nhịp tấu vang, thể hiện sự vui mừng của con người và
chào mời thần linh.
Già làng Năm Nổi giới thiệu đàn tre
Goong Cla.
Đàn tre: Loại nhạc cụ
này ngắn chỉ một phần thân ống của cây tre già. Đọan thân tre được chọn cưa
ngay hai đầu lóng giữ cho tòan đọan tre giữ được nguyên vẹn hơi phía trong ống.
Trên phần ngoài vỏ ống, người Châu Ro tách tạo thành 6 dây. Thường để tạo một
dây phải tách làm 3 tách vỏ mỏng song song. Dây mỏng ở giữa để gãy tạo thanh
âm, còn 2 dây hai bên để phụ cho mảng trống của dây chính, chêm cho dây giữa
nhô ra.
Theo nhiều người Châu Ro lớn tuổi thì đây là nhạc cụ dễ
làm. Nếu nhà người Châu Ro nào nghèo không có tiền, hay trâu bo, chum chóe quý
để đổi Chinh thì họ làm đàn tre. Loại nhạc cụ này do một người diễn tấu với bài
bản giống như một dàn chinh nhưng âm thanh nhỏ hơn nhiều. Họ tự chế loại nhạc cụ
này để có thể tấu diễn hay thưởng thức thay thế cho dàn Chinh trong các dịp lễ
hội…Hiện nay, một số người Châu Ro lớn tuổi còn sử dụng loại nhạc cụ này để giải
trí hay gãy trong các dịp lễ tết của gia đình. Những người trẻ ít biết sử dụng
đàn tre này. Trong các dịp lễ hội, sau khi ăn mừng, những người già làng thường
tấu lên những bài Chinh để cho mọi người nghe.
Khi sử dụng đàn tre, người Châu Ro thường đứng hoặc ngồi
rất thoải mái. Đàn tre có một điểm tựa phần gốc vào người diễn tấu. Đàn tre đưa
hơi chếch lên so với điểm tựa và về phía trước mặt. Hai bàn tay người tấu châu
vào ôm thân đàn và các ngón tay xếp theo từng bậc của dây. Tay phải đóng vai
trò chủ đạo trong diễn tấu. Các ngón tay khác tùy theo sự thành thạo hay điêu
luyện của người diễn tấu mà có thể dùng để khảy các dây. Trước khi diễn tấu các
bài cùng điệu thức, chủ âm thì người tấu phải chỉnh dây bằng cách đẩy những miếng
gỗ chêm nhò tại các đầu dây (ra, vào) để nâng độ dây lên cao hay chùng xuống
theo ý muốn (xem như cây ngựa đàn).
Đàn tre là loại nhạc cụ thường được dùng diễn độc tấu các
bài bản giai điệu như của cồng chiêng…Tính năng thể hiện của Chinh K;la rất đa
dạng, phong phú ở các tiết tấu nhanh hoặc chậm, trầm lặng hoặc sôi động. Âm
thanh của loại nhạc cụ này nghe hơi mờ, tối, độ vang ngắn. Loại nhạc cụ này hiện
nay có già làng Nguyễn Văn Nổi (ấp Lý Lịch, xã Phú Lý huyện Vĩnh Cửu) thường sử
dụng.
Kèn Môi
Kèn môi: Kèn được làm
bởi một thanh tre lồ ô nhỏ, mỏng. Chiều dài khoảng 20 cm, rộng 0,2 cm. Mảnh tre
được vuốt láng trơn bề mặt và lòng phía trong. Một đầu mảnh tre tạo đầu nhú như
hình tra cán rìu nhỏ.
Một đầu vuốt nhọn dần. Giữa mảnh tre được tạo một lưỡi gà
để tạo âm thoa khi thổi. Phần lưỡi gà được tạo chiếm 2/3 chiều dài lòng thân mảnh
tre. Lưỡi gà còn có thể làm bằng một lá đồng mỏng. Vì chất kim loại nên tiếng
kêu sẽ thanh hơn nhưng khó làm.
Người Châu Ro dùng miệng để thổi kèn. Phần lưỡi gà đặt ở
môi. Tay trái giữ lấy đầu nhọn. Phần lưỡi gà đặt ở môi. Tay phải khảy bật phần
đầu nhú làm cho lưỡi gà rung tạo thành âm vang ra. Khi thổi, người Châu Ro dùng
lưỡi điều chỉnh hơi và vòm miệng để thay đổi âm sắc.
Thường người Châu Ro khi canh chòi, giữ rẫy thường sử dụng
loại kèn môi để thổi. Người thanh niên của Châu Ro trước đây cũng thường dùng
kèn tồng để bày tỏ tình cảm đối với cô gái mà mình yêu mến. Họ thường đến dưới
nhà sàn hoặc những gốc cây gần nhà cô gái để thổi.
Giai điệu và âm từ kèn môi phát ra rất nhẹ nhưng thanh.
Người thổi tạo âm và khảy theo chủ đích thì người nghe có thể hiểu được chủ ý.
Âm phát từ kèn là tiếng được tạo từ miệng, môi một cách nhẹ nhàng để khi thổi
và khảy bật tòan thanh kèn tạo nên độ luyến láy.
Đây là nhạc cụ tự tạo. Trong lễ hội, người Châu Ro dùng
kèn môi để cầu chúc điều tốt lành cho những người tham dự lễ hội, vui chơi. Hiện
nay, ở Lý Lịch, bà Hồng Thị Lịch còn thổi được kèn mối.
Kèn lúa: Người Châu Ro
dùng thân cây lúa để làm kèn thổi nên có tên gọi như thế. Thân cây lúa phải lớn,
trong thời kỳ trổ đòng thì có ống dài và đoạn mắt. Thân lúa được cắt về để ngâm
trong nước giữ độ tươi. Người Châu Ro dùng tay bóc lớp vỏ ốp thân lúa phía
ngoài, chọn lấy phần ống có đoạn mắc. Từ đoạn mắc dài ra khoảng một gang tay
thì cắt vát. Tại gần phần đoạn mắc dùng dao khứa một đường nhỏ cắt vào một phần
ba thân ống. Từ đường cắt khứa mỏng này bật lên phía sau khoảng một đốt ngón
tay để làm lưỡi gà. Trên ống thân lúa cùng bề mặt có lưỡi gà khoét bốn lỗ nhỏ
thông vào thân ống đều nhau (thường là hình vuông hoặc hình tròn) có tác dụng
thoát hơi. Phần đoạn mắt có lưỡi gà để ngậm vào miệng thổi, các lỗ hơi dùng
ngón tay trỏ và giữa của hai bàn tay vừa che vừa thả tạo làn điệu theo cách của
người thổi. Thường người Châu Ro dùng ngón trỏ, ngón giữa của hai bàn tay vừa
che vừa thả tạo làn điệu. Người Châu Ro trước đây dùng kèn lúa thổi theo các
làn điệu để hẹn hò tâm sự tình yêu nam nữ. Nay không còn duy trì. Trong lễ cúng
Sa Yang Va, các phụ nữ lớn tuổi thổi kèn lúa với các giai điệu trầm bỗng nghe
như nhớ về làn điệu xưa và góp vui cho cộng đồng trong các tiết mục sinh hoạt
văn nghệ trong thời gian diễn ra lễ hội. Tại ấp Lý Lịch hiện nay, bà Hồng Thị
Trang là người thổi kèn lúa có những làn điệu rất hay.
K’Toàn biểu diễn thổi kèn bầu 6 ống của
người Chrau-Jro.
Kèn bầu: Kèn được làm
bằng trái bầu già để khô và 6 ống trúc. Trái bầu được vét sạch phần ruột, để trống.
6 ống trúc có độ dài ngắn khác nhau: ống dài nhất khoảng 80 cm, ống ngắn nhất
khoảng 45 cm.
Các ống trúc được gắn vào một phần bên hông của trái bầu
rồi xuyên qua cả trái bầu theo chiều ngang bằng sáp ong. Phía trên gắn 4 ống,
phía dưới gắn 2 ống, đầu phía ngoài choãi ra cùng một hướng nhưng với góc lệch
khoảng 15 – 20 độ. Các ống trúc được chế lưỡi gà bằng miếng kim loại mỏng, phần
lưỡi gà đưa vào phía trong trái bầu. Trên thân ông trúc phía ngoài, mỗi ống có
lỗ hơi phía dưới.
Về kỹ thuật diễn tấu, người Châu Ro dùng miệng ngậm vào đầu
trái bầu khô. Hai tay giữ các ống trúc vừa giữ kèn đồng thời tạo nhịp âm theo ý
muốn. Khi hút hơi vào, các ngón tay giữ bịt các lỗ hơi trên thân ống trúc. Khi
thổi hơi ra, ngón tay giữ ống trúc nào nhả lỗ hơi thì lưỡi gà sẽ tạo ra âm
thanh.
Tư thế người thổi kèn bầu đa dạng. Người thổi có thể ngồi
hoặc đứng. Trong các lễ hội với không khí nhộn nhịp, náo nhiệt, khi hòa tấu
cùng dàn nhạc cụ như chinh, chiêng, người thổi có thể vừa đi vừa thổi với những
bước nhịp chân. Những người thổi giỏi vừa nhảy vừa thổi nhưng vẫn giữ được
thanh nhịp bài thổi.
Làm cành phan.
4. Cách bày trí các khu vực diễn lễ cúng Sa Yang Va
Tuyến tính diễn ra lễ cúng Sa Yang Va tại ba địa điểm
chính là rẫy lúa, nhà sàn và kho lúa.
Rẫy lúa: Liên quan đến
nghi thức rước hồn lúa. Tại đây, khi thu hoạch mùa, vạt lúa có chùm bông nhiều
hạt, chín vàng. Những bông lúa được bó lại bằng tranh, rơm, lá chuối và rào bốn
bên bằng các loại gai bằng tre, cây cối để bảo vệ cẩn thận cho đến khi lễ cúng
Sa Yang Va diễn ra.
Nhà sàn: Trên gian nhà
chính của nhà sàn để bàn thờ Nhang và là nơi diễn ra những nghi thức cúng trình
Yang nhi (Yang nhà). Bàn thờ cúng có ba tầng nấc gắn vào vách. Từ hai tầng trên
bàn thờ có hai cây nhô thẳng ra phía trước để gắn hai cây đèn sáp. Tầng trên
cùng để chén đựng vỏ cây chùm hum được hun khói xông; tầng thứ hai để bài trí lễ
vật cúng. Cây Nhang (được mô tả trong phần cây nêu) được cắm vào bàn thờ từ giữa
tầng hai theo chiều xuôi xuống. Phần giỏ bông cây Nhang và các tia toả về phía
trước bàn thờ theo hướng song song vơi mái trần nhà/ nơi để những đồ vật của
mùa cúng Yang Va năm trước.
Phần dưới cùng bàn thờ bày những ché đựng lúa, gạo, nếp của
các mùa thu hoạch trước. Trước bàn thờ khoảng 1 mét đặt ché rượu cần. Phía vách
đối diện bàn thờ Nhang là bộ chiêng được người Châu Ro dùng dây mây treo lên một
cây ngang buộc theo một đà cây mái nhà. Những cái chiêng được treo vừa tầm đối
với người ngồi đánh.
Phía dưới sân nhà sàn được dọn sạch sẽ. Cây nêu được dựng
giữa sân. Gốc cây nêu là nơi cột những con vật sẽ làm thịt để hiến tế trong lễ
hội. Cách cây nêu khoảng 2 mét có dựng khung giàn để treo chiêng (vị trí không
bắt buộc). Xung quanh sân với cây nêu làm tâm có làm những dãy cây rừng buộc dã
thô để làm chỗ ngồi cho người dự lễ.
Kho lúa: Là nơi để cất
giữ lúa mà người Châu Ro thu hoạch mùa màng vừa qua. Trước đây với sàn kho bằng
gỗ thì người Châu Ro trải lúa trên cả phía trong kho. Nay, với nhu cầu bảo quản
lâu dài nên người Châu Ro sử dụng các đồ đựng bằng nhiều chất liệu để chứa lúa
và cất giữ trong nhà kho. Dù nhà kho còn chứa lúa hay không thì khi tổ chức lễ
cúng Sa Yang Va thì trong kho phải có một số lúa tượng trưng. Nhà kho được dọn
cho tươm tất, sạch sẽ.
5. Diễn trình các nghi thức trong lễ cúng Sa Yang Va
Rước hồn lúa: Bắt đầu
cho buổi lễ cúng Yang lúa là nghi thức rước hồn lúa. Khi buổi sáng của ngày
cúng bắt đầu, lúc mặt trời lên, người nhà của người Chơro tổ chức lễ thực hiện
việc đi rước hồn lúa. Người gọi Yang lại khấn trình trước bàn thờ và cho người
đi lên rẫy.
Người phụ nữ chính trong nhà và người thân (số lượng người
không quy định nhưng không đông lắm, thường chỉ có ba người) đem theo liềm, chà
gạc, bầu khô đựng nước để trong gùi mang đi. Họ đi về hướng rẫy lúa nơi để dành
sẵn một chùm lúa chín. Rẫy lúa ở khá xa với nhà người Châu Ro đang cư ngụ.
Tại khu rẫy, khi thu hoạch mùa màng, người Châu Ro để lại
một vạt lúa tốt có những bông lúa trĩu hạt. Khi đi đến nơi, người phụ nữ chính
thực hiện nghi thức khấn. Lời khấn mang nội dung: báo cho hồn lúa biết hôm nay
nhà tổ chức lễ cúng Sa Yang Va và mời hồn lúa từ rẫy về nhà dự lễ cúng, cầu xin
hồn lúa thuận ý và phu hộ cho mọi sự diễn ra tốt lành. Khấn xong, người phụ nữ
lấy nước trong trái bầu khô đem theo rảy vào chùm lúa thể hiện sự tẩy sạch và
tươi tắn cho chùm lúa chọn. Những người đi theo dỡ bỏ những rào che, mở chùm
lúa khỏi những dây bó, lá chuối và lấy liềm gặt lấy, bó lại, bỏ vào gùi.
Khi gặt chùm lúa chọn xong, những người đi theo tìm đến một
phần đất khác để chặt hai ngọn mía và hai ngọn chuối con (có khi không có mía
nhưng bắt buộc phải có đọt chuối non). Những cây mía và cây chuối cũng được chọn
sẵn trước với điều kiện lá xanh, đọt thẳng, thường nảy nở từ những bụi gốc lớn.
Trước khi chặt đọt chuối (cây mía) người phụ nữ Châu Ro đọc lời khấn báo gia
đình làm lễ cúng Yang Va và xin được chặt chuối non về làm lễ; bên cạnh đó, họ
đọc lời khấn cho con cai trong nhà được an, được phúc, nhanh lớn như đọt chuối.
Tất cả những đồ vật được bỏ vào gùi và mang về nhà trình qua Yang nhà.
Những vật lấy từ rẫy có ý nghĩa quan trọng trong quan niệm
của người Châu Ro khi tổ chức cúng. Chùm bông lúa chọn là hồn lúa của mùa màng
và qua đó, người Châu Ro thể hiện lòng biết ơn đối với thần linh trong mỗi kỳ
làm rẫy. Cái tốt nhất, đẹp nhất dành cho ngày cúng tế Yang lúa. Hai hai đọt chuối
non (cây mía) thể hiện sức sống, sự sinh sôi nảy nở của con cái như lời khấn và
cho các loại cây khác mà người Châu Ro trồng tỉa trên nương rẫy. Con số hai (chẵn)
của lễ vật rẫy biểu hiện của người Châu Ro trong quan niệm sự hoàn thiện, có
đôi, có bạn cho cả người chủ rẫy, chủ gia đình người gọi Yang.
Khi những người đi rước hồn lúa về thì họ dừng lại ngay tại
gốc cây nêu. Tại gốc cây nêu có buộc sẵn các con vật hiến tế là heo và gà. Người
Châu Ro để gùi xuống chứa đựng các vật đem về từ rẫy: chùm bông lúa, hai cây
mía, hai cây chuối như trình báo cho thần linh, tổ tiên chứng giám.
Trình Yang nhà và làm vật hiến tế: Khi những người đi rước
hồn lúa về trình các lễ vật tại gốc cây nêu thì người gọi Yang ngồi chờ sẵn tại
cửa nhà sàn. Người phụ nữ mang gùi lên cầu thang và giao lại những vật mang từ
rẫy cho người gọi Yang. Người gọi Yang đem các vật từ rẫy vào trước bàn thờ.
Các chùm bông lúa đặt lên tầng thứ hai của bàn thờ. Sau đó, người gọi Yang tách
lấy một phần của chùm bông lúa ra từng bông gắn lên thân cây Nhang mùa cúng trước,
đọt chuối non gắn hai bên cây Nhang. Vừa đặt sắp các vật, ngươi gọi Yang vừa đọc
lời khấn với vẻ mặt cung kính. Một người phụ cúng bắt con gà từ cây nêu đưa cho
người gọi Yang. Người gọi Yang cầm con gà cúng ngồi trước bàn thờ Nhang đưa lên
vái ba lần, miệng đọc lời khấn xin làm thịt những con vật hiến tế. Những người
phụ cúng đem cây Nhang và con gà xuống phía dưới nhà sàn làm thịt. Một người cắt
cổ gà lấy huyết bôi đều vào các chùm tia của cây Nhang.
Sau đó, những người phụ cúng bắt heo từ gốc cây nêu làm
thịt. Khi cắt cổ, họ dùng thanh tre vuốt nhọn thọc huyết. Huyết chảy ra liền được
họ lấy tay nhúng và bôi đêu lên cây Nhang mà trước đó đã bối huyết gà. Khi bôi
xong, một người sẽ đem cây Nhang lên nhà sàn đưa cho người gọi Yang. Người gọi
Yang cung kính đón lấy và đọc lời khần trình lên Yang nhà và gắn vào phía dưới
bàn thờ Nhang. Khi cây Nhang được bôi huyết hai con vật tế thì được đem cắm vào
phần dưới cùng của bàn thờ. Trong thời gian trình các lễ vật từ rẫy cho đến
trình cây Nhang đã được bôi huyết các con vật hiến tế thì những người phụ nữ
Châu Ro liên tục đánh giàn chiên trên nhà sàn để tấu những làn điệu nhộn nhịp mừng
lễ cúng.
Phía dưới nhà sàn, ngay từ buổi sáng diễn ra lễ cúng, những
người Châu Ro tham gia lễ hội làm các thứ thức ăn như bánh dày, cơm lam, củ nần,
củ mì, củ chụp, đọt mây…để đãi khách khi lễ cúng hoàn tất. Nếu lượng thức ăn
nhiều thì họ chuẩn bị từ đêm trước lễ hội.
Bánh dày được làm từ sáng sớm. Người Châu Ro rang mè đen,
sau đó cho vào xôi nếp đem đi giã. Để thực hiện một ổ bánh dày thì ba người giã
và một người phụ trở bánh trong cối. Khi xôi và mè được giã nhuyễn thì họ cầm
bánh đập vào cối cho có độ dẻo chặt. Bánh mềm dẻo với màu đen, trắng chấm li ti
được tạo dáng hình tròn để trên lá chuối rừng.
Nếp, củ nần, củ mì, củ chụp, đọt mây được người Châu Ro
cho vào ống tre lồ ô với một lượng nước vừa đủ để nấu. Tất cả các ống tre được
bịt chặt lại bằng lá chuối. Một bếp lửa dài được đốt lên và có một giá đỡ ngang
để giữ những ống tre. Những người tham gia nấu phải liên tục canh độ lửa để trở
những ống tre đang nấu cho chúng được đốt đều. Lá bếp thì được quấn trong lớp
lá chuối, kẹp vào thanh tre để nướng. Thịt heo, thịt gà được xâu chuỗi trong
các xiên tre vót nhọn để nướng. Các thức ăn làm được bày sẵn theo thứ tự trên
các sàn tre, cây được làm sẵn.
Nghi thức cúng Yang nhi: Lễ
cúng Yang thường được bắt đầu vào buổi trưa. Để chuẩn bị cho buổi lễ những người
phụ cúng bắt đầu bài trí khu cúng trên bàn thờ Nhang trên nhà sàn. Bàn thờ
Nhang được bày các lễ vật. Chén vỏ cây chùm hum được chuyển từ tầng trên cùng
xuống tầng thứ hai của bàn thờ để xông hương, hai cây đèn cầy sáp ong được đốt
lên. Bên cạnh đó là các lễ vật cúng như bánh dày, cơm lam, cù nần, củ mì, đọt
mây đã được nấu chín.
Ché rượu cần được khai miệng, đổ nước vào, cắm những ống
hút bằng tre. Bốn ống hút nghiêng ra bốn hướng và 1 ống chính (ngắn) ở giữa và
cái cò bắc ngang miệng ché. Từ bốn ống hút bốn bên được cốt nối vòng những sợi
dây chỉ đều nhau. Có hai sợi dây chỉ nối từ hai ống hút của ché rược cần lên
trên trần nhà / nơi để những bông lúa, cây nhanh của mùa cúng trước. Trên những
sợi dây được kết những bông gòn theo từng nấc tượng trưng cho cái thang để thần
linh đến dự hưởng rượu cần của mùa lúa đã thu hoạch. Người phụ cúng nối vào ống
hút ngắn chính giữa một đoạn dây ống nhựa để lấy ra một chai nước rượu đầu
tiên.
Thịt của các con vật hiến tế được đem lên bàn thờ. Lễ vật
này gồm một đùi heo phía chân sau, giữ nguyên đuôi; một nửa con gà nhưng giữ
nguyên phần đầu và đĩa đựng một số đồ lòng của con vật như gan, cật, một ít thịt
chặt rời. Các phần thịt để tươi. Người gọi Yang bày lễ vật phía dưới bàn thờ
Nhang cùng với một ổ bánh dày và các loại củ nầu chín (nần, mì, chụp). Sau đó,
người phụ cúng đem đĩa thịt ra xâu vào hai xiên tre (mỗi xiên tre xâu riêng biệt
thịt heo, gà).
Người gọi Yang ngồi trước ché rượu cần, mắt hướng về bàn
thờ Nhang đọc lời khấn. Những người phụ cúng đứng phía sau. Tại Lý Lịch, già
làng Năm Nổi đọc lới khấn.
Mai Hường
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét