Nếu có lũ lụt, vì kèo không mộng không bị vặn gẫy mà chỉ
trượt đi trên các thanh xà, sau đó người ta củng cố lại dễ dàng.
1. Nhà sàn gỗ và tre có mặt ở khắp
vùng Đông Nam Á, rộng hơn là từ miền Nam Trung Hoa, kề cận với biên giới Việt
Nam, Lào, Myanmar, Thái Lan. Cho nên khó có thể nói nhà sàn là sản phẩm riêng
biệt của dân tộc nào ở Đông Nam Á.
Khí hậu rừng núi nóng ẩm, lắm sông
ngòi, nhiều muông thú rắn rết, khiến việc định cư trên nhà sàn có vẻ thuận tiện
hơn cả, và mặt khác là đời sống khá thanh bình của nhiều sắc tộc Đông Nam Á,
người ta không lo sống phòng thủ, trộm cướp. Bởi nhà sàn thực hiện chức năng
phòng thủ là không hiệu quả. Nhất là khi trong làng Mường người ta ở cách nhau
một khoảng sân vườn, sườn đồi, sự tương hỗ trong chiến trận là rất khó.
Tuy nhiên
trong lịch sử của người Mường dường như không có cuộc xung đột sắc tộc nào, hay
cuộc xâm lăng nào từ bên ngoài, việc tổ chức Mường (làng bản) lỏng lẻo của người
Mường cho thấy cuộc sống an bình diễn ra nhiều ngàn năm qua. Trong khi đó, làng
với nhà sàn của người Tây Nguyên được tổ chức gọn gàng trên một khoảng đất trống
có rào xung quanh làng, nếu có cuộc xâm lấn của làng khác, người ta cũng dễ
dàng phòng thủ. Trong làng của người Ka Tu, nhà gươn là ngôi nhà thiêng liêng,
nếu ai chạy vào đó, thì có nghĩa là được bảo vệ, bởi một quan niệm tín ngưỡng
chung cho tất cả các nhóm sắc tộc Ka Tu xung quanh đó. Và người Ka Tu trong lịch
sử cũng là một sắc tộc hiếu chiến, khả năng tự bảo vệ mình rất cao.
Còn làng bản của người Thái trắng
được tổ chức văn minh như một khu phố, các ngôi nhà xếp bằng bên nhau, các mái
nhà đưa ra rất rộng và mái nhà nọ sát mái nhà kia, mưa không lọt vào khu vực
hai nhà và trẻ con có thể chơi dưới mái rộng từ nhà mình và nhà hàng xóm. Từ
hàng cột sát vách ra đến mép mái gianh nhà sàn Thái cổ có thể rộng ra đến 2,5m
thậm chí là rộng hơn và độ thấp gần hết cửa sổ, như vậy trong nhà tối và rất
mát, không có tia nắng nào lọt thẳng vào nhà cả.
2. Trên nóc nhà sàn Thái xưa thường
có hình khau cút, một biểu tượng về sự sống có hình thức là hai cái gạc bắt
chéo, đây chính là hình rau dớng cách điệu, loại rau rừng không trồng mà mọc rất
mạnh mẽ, tượng trưng cho cuộc sống sinh tồn bất diệt. Biểu tượng rau dớng còn
được thấy nhiều trên các cột Klao và cột Kut ở Tây Nguyên. Còn hình khau cút cho
đến nay vẫn phổ biến trong kiến trúc Thái truyền thống ở Thái Lan.
Thực ra nhà sàn Thái (tộc Thái nói
rộng, cả ở Lào, Việt Nam, Nam Trung Hoa, Myanmar, Thái Lan) rất phong phú nhiều
hình thức, trong khi ở Việt Nam nhà sàn kiểu một sàn phẳng là phổ biến, thì ở
Thái Lan xưa, nhà sàn nhiều cấp và mặt sàn rộng như sân chơi rất phổ biến.
Bảo tàng kiến trúc của Đại học
Chiang Mai đã lưu giữ các kiểu thức nhà Thái truyền thống như vậy, có cả kiểu
hai nếp nhà song song tương đối nhỏ trên một mặt sàn, có lẽ cho hai gia đình, bố
mẹ và vợ chồng trẻ, mái của hai nóc nhà chạm vào nhau tạo thành một hành lang
chơi khá rộng, và mặt sàn như sân phơi có đến hai cấp khác nhau. Bên cạnh đó là
một kho thóc được làm trên bốn cột cao tới bảy tám thước, tức là nếu gia chủ
không bắc thang thì không ai có thể lên được. Thóc lúa là lương thực thiết yếu
cần phải bảo vệ khỏi trộm và thú.
Nhà san Thái Tây Bắc. Tranh
ký họa của Mai Văn Nam những năm 1960.
3. Địa hình Tây Bắc nước
ta pha trộn núi đất lẫn núi đá, có cả núi đá non và già, gặp mưa rừng dễ gây lụt
trên núi và lở đất. Mưa vùng núi Tây Bắc thường chảy nước ra tứ bề, thực ra là
khắp các nơi trũng, nhất là khi rừng bị tàn phá nhiều. Việc lở đất và lụt dễ
kéo trôi các nhà sàn, cho nên các nhà sàn truyền thống Mường Thái, vùng đất
không vững thường chôn cột rất sâu, nhất là nhà sàn Mường.
Người Thái thường tìm địa hình bằng
phẳng hơn lập làng bản, trong khi người Mường vẫn dựa theo các sườn núi thấp.
Việc tổ chức làng bản lỏng lẻo của người Mường cho thấy cuộc sống an bình diễn
ra nhiều ngàn năm qua. Cột nhà Mường đôi khi chôn sâu tới ba thước, cho nên cột
rất dài vì xuyên qua mặt sàn lên đến nóc. Các vì kèo không làm theo lối mộng mẹo
như vì kèo giá chiêng hay chồng gường của người Việt (Kinh) mà làm theo lối có
chốt gác và đè lên nhau đơn thuần. Nếu có lũ lụt, vì kèo không mộng không bị vặn
gãy mà chỉ trượt đi trên các thanh xà, sau đó người ta củng cố lại dễ dàng.
Trong truyền thuyết người Mường cho
rằng con rùa đã dạy họ làm nhà, bởi chính hình thức của nó, bốn chân như bốn cột,
mai rùa là bộ mái. Bộ mái nhà sàn Mường xưa cũng mở rất rộng và đưa thấp xuống
gần hết cửa sổ, và được xén tròn quanh nhà như mai rùa. Các dui kéo từ nóc ra
mái được làm bằng những cây bương hoặc tre nứa đều dài, gác lên các xà ngang
đưa ra khỏi khung vì kèo một khoảng khá lớn.
Tùy theo đẳng cấp trong xã hội người Mường mà nhà sàn được làm lớn và quy mô đến
đâu, nhà sàn của tầng lớp Lang là lớn nhất, nhà sàn của bình dân (Noóc và Noóc
chọi) thì nhỏ hơn và có thể dùng tre nứa nhiều hơn là gỗ.
Bộ mái quyết định khí hậu trong ngôi
nhà, tốt nhất là được lợp bằng cỏ gianh dài đánh thành từng bó, tuy nhiên những
năm gần đây, cỏ gianh gần như tuyệt chủng, và nhiều nhà sàn hoặc phải lợp mái
tôn, hoặc chuyển thành nhà đất. Mái gianh giúp người ta ấm về mùa Đông, mát về
mùa Hè, và ít nhất 20 năm mới phải đại trùng tu.
Trước kia phần lớn các nhà sàn Mường
Thái đều lát sàn bằng bương, nứa đập dập, đi lâu năm, sàn đỏ bóng, tất nhiên mặt
sàn không chắc bằng sàn gỗ, đồng thời người ta còn nuôi trâu bò, gà lợn dưới gầm
sàn nên sự vệ sinh cũng không tốt lắm. Mặc dù ở rừng núi, nhưng để làm ngôi nhà
sàn bằng sàn gỗ cả không phải là dễ vì buộc người ta phải nợ rất nhiều công khi
nhờ cộng đồng giúp, và sự thông thoáng của sàn gỗ cũng kém hơn sàn nứa.
4. Nhà sàn là kết quả đúc kết lâu đời
của những sắc tộc định cư lâu đời trên mảnh đất Việt Nam, nó phù hợp với khí hậu,
địa lý thổ nhưỡng và tập tục văn hóa, trong đó nhà sàn Mường Thái vượt lên bởi
những ưu việt về kết cấu và tính thẩm mỹ trong văn hóa của hai sắc tộc có nhiều
qua lại ảnh hưởng này.
Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét