Trong ánh lửa đêm hay vào ngày mùa vàng trĩu hạt, vũ điệu
xòe cùng tiếng khèn déo dắt ôm trọn tấm thân người con gái mang trên mình chiếc
áo Xử cỏm Đen chàm ánh nắng hồng, điểm sắc vào bức tranh vùng cao một gam màu
tươi sáng, gợi nhắc đến quá khứ xa xưa về chuyện tình đầy thơ mộng mà đẫm lệ của
đôi trai tài gái sắc.
Thiên nhiên không chỉ ưu đãi cho vùng đất Tây Bắc với kỳ vĩ
núi non, phong cảnh nên thơ hữu tình mà đó còn là nơi sinh sống của rất nhiều
dân tộc anh em. Thừa hưởng nền văn minh lớn lao qua các thế hệ, người Thái Tây
Bắc đã góp phần không nhỏ vào kho tàng văn hóa phong phú, đa dạng của dân tộc.
Nổi trội lên trong các tầng văn hóa đó là điệu xòe Thái mang đậm dấu ấn những
điển tích cổ xưa.
Truyền thuyết về cây khèn bè
Từ ngàn xưa vẫn được người dân truyền tai nhau, vang vọng
mãi khắp rừng sâu con suối.
Truyền thuyết kể rằng có một chàng trai họ Lò nghèo, nhân hậu
và có tài thổi sáo. Chàng chỉ cần mới đưa lên miệng thổi cũng tạo ra một thứ âm
thanh kỳ lạ làm xao xuyến lòng người. Âm thanh đó bay qua các bản làng qua các
nhành hoa ngọn cỏ để rồi rơi vào lòng một thiếu nữ xinh đẹp con gái một Tạo bản
trong vùng từ lúc nào.
Say cái tài cái duyên của chàng trai co gái đã đem lòng yêu
chàng. Ngày ngày chàng và nàng hò hẹn nhau dưới chân nhà sàn hay bên dòng suối
mát. Tiếng khèn bè dìu dặt len lỏi cả rừng xanh. Hay tin con gái bén hơi chàng
trai họ Lò nghèo, Tạo bản giận lắm. Không ưng thuận mối tình này, ông răn đe
con gái, sắp xếp đợi ngày lành tháng tốt sẽ gả cho một người giàu có ở làng
bên.
Ngày ngày ngồi bên khung cửi, cô gái khóc thương cho mối
tình dang dở và số phận hẩm hiu của mình. Biết không cưỡng lại được ý muốn của
cha, vào một đêm trăng tròn, cô gái trốn ra ngoài gặp chàng trai để từ biệt người
yêu lần cuối. Mắt rưng sóng nước, cô gái cẩn thận đưa cho chàng miếng sáp ong kỷ
vật hằn in dấu tay mình mỗi khi kéo sợi. Miếng sáp ong sẽ thay cho cô gái ở bên
chàng từ nay cho mãi về sau.
Nhận kỷ vật cuối cùng của người yêu, chàng trai buồn bã bỏ
bản ra đi. Lang thang hết ngày này tháng khác, cuối cùng chàng dừng lại bên một
con suối nhỏ. Con suối gắn với mối tình của chàng và người yêu. Tiếng suối róc
rách, tiếng sáo đưa đẩy mắt trao mắt rõ ràng như vừa mới hôm qua.
Thấy có nhiều cây nứa tép bên bờ suối, chàng chọn chặt lấy
từng dóng nứa to, nhỏ khác nhau, miệt mài gọt thành lưỡi sáo và đem thổi. Nhưng
thổi càng thêm buồn. Chàng chặt thêm các dóng nứa, bó các cây sáo lại với nhau,
lấy sáp ong người yêu tặng bịt kín các kẽ hở giữa các ống sáo rồi đem thổi thử.
Chưa vừa ý, chàng lấy dao vạt chéo hết phần đầu các ống sáo. Lạ thay âm thanh
phát ra nhỏ to, cao thấp nỉ non như tiếng khóc thầm của người yêu, tiếng sáo
càng thổi càng trào dâng như tấm chân tình của chàng trai nghèo họ Lò.
Chàng cứ mải mê thổi mãi, thổi mãi. Cho tới khi lịm đi và
không tỉnh dậy được nữa, người ta vẫn thấy đôi tay chàng trai ôm chặt lấy cây
khèn bè không dời như lời thề nguyền về tình yêu đôi lứa không thể chia lìa. Từ
đó câu chuyện về cây khèn của chàng trai họ Lò và người con gái được khắp chín
bản mười mường người Thái cổ nhắc đến như một biểu tượng của tình yêu bất diệt.
Ống nứa dong dỏng như người con trai, nhựa sáp ong mềm mại
thơm nồng tựa như người con gái. Sáp ong tỏa hương thơm dìu dịu bay bổng làm ấm
lòng người con trai thổi khèn và người con gái nghe khèn. Tâm hồn và trái tim
rung động đưa đẩy sự linh hoạt trên đầu ngón tay người con trai tạo âm hưởng
đung đưa, dìu dặt, mà mịu mà quyến rũ, như một lời khẳng định về lòng chung thủy
tuyệt đối của chàng trai nơi cô gái.
Chiếc khèn bè vì vậy mà trở thành sản phẩm nghệ thuật kết
tinh từ cả tâm hồn, trí tuệ và tình yêu đôi lứa. Là khúc dạo đầu không thể thiếu
cho các chàng trai-cô gái Thái thương nhau. Tiếng khèn bè cất lên khi da diết
sâu lắng tình khúc yêu đương cháy bỏng, lúc lại ngân nga trong sáng như tiếng
suối reo ghềnh đá, tiếng gió hát ngọn đồi.
Khúc tâm tình bên suối
Cư trú chủ yếu ở vùng thung lũng ven suối, đời sống kinh tế
nông nghiệp của cộng đồng dân tộc Thái lấy canh tác lúa nước làm chủ đạo. Người
Thái rất coi trọng nguồn nước và coi đó như là sản vật linh thiêng mà thần linh
ban tặng. Dòng suối nhẹ nhàng ôm ấp lấy bản làng, gắn bó với đời sống sinh hoạt
của cộng đồng dân tộc. Suối là nơi tắm gội, nghỉ ngơi sau một ngày lao động mệt
nhọc. Cũng là nơi hẹn hò tình tự của trai gái thương nhau.
Cũng từ dòng suối mà người Thái mới có cây khèn bè. Ngồi
bên bờ suối, tận hưởng trọn dòng nước mát, người ta lại bất giác tưởng nhớ đến
chuyện tình của đôi trai gái năm xưa. Khúc ca khèn bè bởi thế lại vang lên day
dứt.
Bên dòng suối mát chúng ta dễ dàng bắt gặp từng nhóm cô gái
trẻ đẹp trắng ngần trong lần váy đen áo cóm trằng. Trang phục của người phụ nữ
Thái đơn giản mà đặc sắc. Trên nền vải màu có điểm hàng khuy bạc mắc – pém được
chạm trổ tinh vi. Mắc mang nghĩa là quả, đại diện cho cái sinh sôi nảy nở, kết
quả khai hoa. Pém mang nghĩa là bám vào.
Theo quan niệm của người Thái, chiếc áo cóm là nơi trú ngụ
của cái tâm, cái hồn người phụ nữ. Áo cóm đi với váy đen, cùng chiếc thắt lưng
xanh và sợi dây xà tích mang đến vẻ đẹp thắt đáy lưng ong duyên dáng, rung động
lòng người, làm suối bỏ đường đi, khiến lửa quên reo cháy.
Người phụ nữ Thái ngoài vẻ đẹp dịu dàng, nhân hậu còn phải
khéo léo, thành thạo trong công việc gia đình. "Gái biết dệt vải, trai biết
đan cài".
Hễ là con gái Thái thì phải biết thêu biết dệt vải. Con
thoi đưa qua đưa lại, quệt chút nhựa sáp ong hơ nóng xua đi mọi rối bời, vướng
mắc.
Con ong là hiện thân cho vẻ đẹp của người con gái Thái. Ong
nhả ra sáp tựa cô gái Thái với những mối tâm tình tương tư thầm kín thường
ngày. Vì thế miếng sáp ong đi theo những cô gái Thái từ khi còn nhỏ cho đến lúc
trưởng thành, cả khi lao động cho đến lúc nghỉ ngơi, là tấm chân tình gửi gắm của
người con gái. Hình ảnh chiếc Khèn bè đi với sáp ong quấn quýt chẳng rời là ước
vọng cho những đôi trai gái yêu nhau được mãi mãi ở bên nhau.
Bản tình ca trong đêm
Khi màn đêm buống xuống, ánh trăng chiếu rọi khắp bầu trời
bản Mường, ấy là lúc các trai làng sửa soạn sống áo, cầm trên tay chiếc khèn bè
và tìm đến trước cổng nhà người mình yêu.
Giữa đêm khuya thanh vắng, trong giấc say nồng của bản
làng, tiếng khèn cất lên ngân vang, rộn rã. Âm thanh mê hoặc lòng người, phảng
phất cả một vùng đồi nương sông núi ấy đã tác thành cho bao mối lương duyên
trong cộng đồng người Thái.
Không chỉ trầm bổng, sâu lắng, dồn dập làm thổn thức bao
trái tim yêu đương, khèn bè còn là biểu tượng cho sự gắn kết cộng đồng, tạo nên
sức mạnh đoàn kết của những người con bản Thái. Những chiếc khèn bè đơn sơ, mộc
mạc như linh hồn đưa đẩy những điệu xòe, điệu khắp, mang đến niềm vui ấm áp
chan hòa, thể hiện giấc mơ về cuộc sống thanh bình, ước muốn ấm no hạnh phúc.
Ai ai nghe thấy tiếng khèn cất lên cũng đều muốn nhảy múa, cũng muốn cầm tay
nhau vào xòe.
Tiếng khèn làm đẹp bản Mường
Như nắng dệt gấm trên quê hương
Như núi lam xanh sương đêm vừa gội
Như suối hát tình ca…
Cùng với tiếng khèn bè êm ái trong những điệu xòe, tiếng khắp
đậm đà bản sắc, cuộc sống người Thái khắp chín bản mười mường cứ thế trôi đi
qua bao mùa lúa ngô trĩu hạt. Câu chuyện tình của chàng trai họ Lò và tấm lòng
son sắt của cô gái Thái chàng yêu luôn sống mãi trong lòng các thế hệ già, trẻ,
gái, trai Tây Bắc. Như gợi về một miền ký ức xa xôi tươi đẹp. Là tiền đề chắp
cánh cho lớp lớp chuyện tình của các chàng trai – cô gái miền sơn cước này ngày
một dài thêm tròn trịa hơn, xòe nở như đóa hoa ban mỗi độ xuân về.
Chiếc khèn bè của người Thái như một tác phẩm nghệ thuật
hoàn hảo, là sự kết tinh những giá trị vật chất của tự nhiên và tình yêu quê
hương, dân tộc của người nghệ nhân.
"Dậy đi em!
Dậy đi em!
Anh hồi hộp nâng khèn
Trăng vàng sóng sánh
Đầu khèn chạm vào hò hẹn
Sao Hôm đậu xuống mái nhà…" -những âm thanh trong sáng ngân nga như tiếng suối reo, gió
hát của chiếc khèn bè ở khúc “Púc xao” (Gọi bạn tình) như ru người nghe mê đi
cùng đêm hội xòe Mường Lò vùng Tây Bắc.
Hệ thống nhạc cụ của người Thái rất đa dạng và phong phú, gồm
bộ gõ, các loại pí… và đặc biệt là khèn bè. Chiếc khèn bè của người Thái như một
tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo, là sự kết tinh những giá trị vật chất của tự
nhiên và tình yêu quê hương, dân tộc của người nghệ nhân. Nó là sản phẩm minh
chứng cho sự phát triển trong lĩnh vực âm nhạc, là biểu tượng văn hoá tinh thần
độc đáo, riêng biệt của đồng bào dân tộc Thái ở Mường Lò.
Khèn bè được sử dụng làm nhạc cụ đệm trong hầu hết các làn điệu
dân ca, làm nền cho các điệu dân vũ của người Thái. Mỗi khi tiếng khèn bè cất
lên làm người nghe thấy da diết sâu lắng như tình yêu cháy bỏng mà người con
trai gửi tới người con gái.
Giai điệu tự tình của chiếc khèn làm mê đắm mọi lứa tuổi.
Chế tác khèn bè đòi hỏi sự tinh tế, khéo léo, và sự cầu kỳ
trong khi làm cũng như sự tinh tường trong thẩm âm. Với 14 ống nứa tép được
ghép lại thành từng đôi trên một bầu bằng gỗ thừng mực, nghệ nhân phải dùi 12 lỗ
bấm đối xứng và khoét các lỗ thoát hơi trên các ống nứa với các kích cỡ khác
nhau ở các vị trí thích hợp.
Một trong các kỹ thuật khó nhất là xử lý các lam đồng, từ độ
dày, độ dài tới độ bóng bề mặt. Với 5 cung và 1 quãng 8, khèn bè có thể diễn tả
được hầu hết các điệu dân ca, nhạc hiện đại và làm nền cho các điệu dân vũ và
múa hiện đại. Bởi vậy khèn bè luôn có vị trí xứng đáng trong đời sống nghệ thuật
của người Thái và cả trong các tiết mục sân khấu.
Điều thú vị là ở khèn bè Thái có những âm thanh sóng đôi
như: Lả-lá, 2 nốt rế, 2 nốt son, đồ -đố, phà-phá, mà các nghệ nhân gọi là pò mè
– tức là bố mẹ. Bởi vậy mỗi khi tiếng khèn bè cất lên nghe da diết sâu lắng như
lời tâm tình yêu đương cháy bỏng của những đôi trai gái. Dù đó là điệu báo xao
(trai gái), sài peng (tình tự), lòng tông (qua cánh đồng), hay đệm cho các điệu
xoè.
Triết
lý âm-dương, sự sinh sôi phát triển của cuộc sống được thể hiện vô cùng tinh tế.
Chiếc khèn bè không chỉ là nhạc cụ với những âm thanh tuyệt vời mà còn là một
tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo, kết tinh những giá trị vật chất và tinh thần của
tự nhiên và sự sáng tạo cùng tình yêu cao cả của người nghệ sĩ.
Người
Thái Mai Châu có một truyền thuyết về xuất xứ của cây khèn bè rằng "Xưa
kia có một chàng trai họ Lò, gia cảnh nghèo hèn, cả gia tài chỉ có một con dao
của bố mẹ để lại. Nhưng chàng lại có một biệt tài là bắt chước tiếng nói của
muôn loài. Vì tài đó của chàng mà con gái của Tạo bản giàu có trong vùng đã yêu
chàng tha thiết. Thế nhưng tình yêu của đôi trai gái đã bị Tạo bản ngăn cấm. Tạo
bản gả cô gái cho một người giàu có ở làng bên. Chàng trai họ Lò bỏ làng đi,
mang theo kỉ vật của người yêu là một gói sáp ong đá. Một ngày dừng chân bên
dòng suối, chàng dừng lại và lấy nứa tép bên bờ suối để làm sáo. Tiếng sáo buồn
bã, cô đơn. Chàng bèn bó các cây sáo lại với nhau, dùng sáp ong đá của người
yêu để bịt kín các kẽ hở giữa các ống sáo. Thế nhưng tiếng sáo không đều theo ý
chàng. Bực mình, chàng trai đã dùng dao vạt chéo hết phần đầu của các ống sáo
và đem thổi thử. Lạ thay cây sáo bè có tiếng to nhỏ cao thấp cứ ngân nga theo
các ngón tay bấm của chàng. Chàng trai họ Lò mải mê học thổi theo tiếng thác nước
chảy cho đến chết. Bạn bè của chàng trai họ Lò đã tìm thấy chàng bên dòng nước
hai tay vẫn nắm chặt lấy chiếc khèn. Sau đó cây khèn của chàng được các bạn bắt
chước làm. Khèn được bịt hơi bằng sáp ong thì kêu tốt. Từ đó, khèn theo tay các
chàng trai đi sương, về nắng, còn sáp ong quấn chặt lấy khèn, không bao giờ nỡ
rời xa."
Với
ý nghĩa ca ngợi tình yêu chung thủy của đôi trai gái mà khèn bè được sử dụng rộng
rãi trong cuộc sống sinh hoạt của đồng bào Thái. Không biết từ bao giờ, chiếc
khèn bè đã gắn liền với đời sống văn hóa, đó là văn hóa tinh thần độc đáo,
riêng biệt của đồng bào dân tộc Thái. Khèn bè Thái Mai Châu hiện nay đã được cải
tiến nhiều về hình thức cũng như tính năng. Với 14 ống sáo bằng nứa tép, nhỏ bằng
cỡ ngón tay út đều nhau, lưỡi sáo bằng đồng hoặc bạc trắng đánh mỏng như tờ giấy
được lắp vào các ống sáo. Khèn chia làm 2 bè, mỗi bè 7 sáo. Cách đáy sáo khoảng
20cm là trục bằng gỗ, dài 11cm, để khoét miệng thổi và 2 rãnh nhỏ hẹp dài 1cm
ngăn đôi giữa 2 bè. Lưỡi sáo của 2 bè cùng hướng vào nhau, thông với miệng
khèn, bên ngoài trục thổi bịt kín sáp ong đá.
Khèn
bè được sử dụng làm nhạc cụ đệm trong hầu hết các làn điệu dân ca, làm nền cho
các điệu dân vũ của người Thái. Mỗi khi tiếng khèn bè cất lên làm người nghe thấy
da diết, sâu lắng như tình yêu cháy bỏng mà người con trai gửi tới người con
gái, lúc lại ngân nga trong sáng như tiếng suối reo, gió hát. Tiếng khèn bập
bùng như ngọn lửa làm xao xuyến lòng người. Người thổi khèn bè phải hiểu được
tính năng riêng của khèn bè và đặc biệt phải thuộc những giai điệu riêng, những
bài hát để từ đó cùng với tiếng khèn có thể chuyển tải đến người nghe cái hay,
cái tinh túy của tiếng khèn, âm thanh của khèn vừa có giai điệu lại vừa có phần
đệm tạo cho người nghe cảm giác thư thái, yên bình, đó cũng là nét độc đáo của
khèn bè. Ông Lường Song Toàn-Nhà sưu tầm văn hóa dân gian cho biết: "Cùng
với các nhạc cụ độc đáo khác của dân tộc Thái, khèn bè được sử dụng phổ biến
trong đời sống sinh hoạt văn hóa cộng đồng, có thể nói khèn bè là cái hồn của
người thái, làm phong phú kho tàng dân ca, dân vũ của cộng đồng dân tộc Thái ở Yên
Châu".
Chiếc
khèn bè của người Thái như một tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo, là sự kết tinh những
giá trị vật chất của tự nhiên và tình yêu quê hương, dân tộc của người thổi. Nó
là sản phẩm minh chứng cho sự phát triển trong lĩnh vực âm nhạc, là biểu tượng
văn hoá tinh thần độc đáo, riêng biệt của đồng bào dân tộc Thái.
Cuộc
sống đã có nhiều đổi thay, nhưng tiếng khèn bè với âm thanh mang đậm hơi thở
núi rừng vẫn len lỏi trong từng bản làng ở vùng cao Yên Châu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét