Dân tộc Thái ở Việt Nam có cùng nguồn gốc
với các cộng đồng ngữ hệ Thái thế giới. Địa bàn cư trú các cộng đồng ngữ hệ
Thái tạo nên mảng lãnh thổ liền nhau từ đảo Hải Nam (Trung Quốc), qua miền Nam
và Tây Nam Trung Quốc, Bắc Việt Nam,
Lào, Thái Lan, Đông Bắc và Bắc Myanma, qua
bang Atxam của Ấn Độ, cho đến Tây Bắc Campuchia và Bắc Malayxia. Các cộng đồng
thuộc ngữ Hệ Thái thế giới gồm khoảng hơn trăm triệu dân. Trong đó, Vương quốc
Thái Lan chiếm khoảng trên sáu mươi triệu người. Ở Lào, các tộc người Lào Lum đều
thuộc ngữ hệ Thái, có khoảng 3 triệu dân. Ngoài ra, người thuộc ngữ hệ Thái còn
là dân tộc thiểu số có dân số khá đông và tạo nên dải lãnh thổ liền khu ở các
nước khác trong khu vực Đông Nam Á của thế giới. Người ta chia cộng đồng ngữ hệ
Thái này thành hai ngành lớn: ngành phía Đông và ngành phía Tây. Sự phân chia đại
quát đó phản ảnh một thực tế các cộng đồng ngôn ngữ này đã chịu tác động lớn của
hai nền văn hoá khổng lồ: Trung Hoa (Phía Đông) và Ấn Độ (Phía Tây). Mặc dù
phân chia như vậy, nhưng trong sinh hoạt, tập quán canh tác, ngôn ngữ giao tiếp,
văn học dân gian. vẫn còn gần như là một. Họ vẫn có thể hiểu nhau và dễ đồng cảm
nhau mỗi khi có điều kiện tiếp xúc sau ít thời gian đầu bỡ ngỡ. Điều đó nói lên
rằng các cộng đồng này dù đã phân chia sâu sắc như ngày nay, nhưng đã có cùng một
nguồn gốc. Hơn thế, các cộng đồng cùng nguồn gốc này đã trải qua một thời kỳ lịch
sử lâu dài tồn tại và phát triển chung với nhau và giao lưu giữa họ vẫn còn tiếp
tục kéo dài cho đến ngày nay. Nhóm ngữ hệ Thái ở Việt Nam bao gồm 8 tộc người với
3.877.503 người (chiếm 5,08% dân số cả nước) sống chủ yếu ở khu vược Đông Bắc,
Tây Bắc và phía tây Thanh Hoá, Nghệ An, trong đó đông nhất là người Tày, người
Thái và người Nùng. Tộc người Tày gồm 1.447.513 người, sống tập trung ở các tỉnh
Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Quảng Ninh. Tộc
người Thái gồm 1.328.725 người sống chủ yếu ở các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Điện
Biên, Hoà Bình, Yên Bái và khu vực phía tây Thanh Hoá, Nghệ An. Tộc người Nùng
gồm 856.412 người sống chủ yếu ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái
Nguyên, Yên Bái, Tuyên Quang, Hà Giang, Quảng Ninh. Các tộc người Sán Chay:
147.315 người; Giáy: 49.098 người; Lào: 11.611 người; Lự: 4.964 người; Bố Y:
1.864 người đều sống ở khu vực miền núi Đông Bắc và Tây Bắc (Số liệu thống kê
01.4 1999).
Vài nét về người Thái ở Tây Bắc Việt Nam A. Vài nét về người
Thái Việt Nam Dân tộc Thái ở Việt Nam có cùng nguồn gốc với các cộng đồng ngữ hệ
Thái thế giới. Địa bàn cư trú các cộng đồng ngữ hệ Thái tạo nên mảng lãnh thổ
liền nhau từ đảo Hải Nam (Trung Quốc), qua miền Nam và Tây Nam Trung Quốc, Bắc
Việt Nam, Lào, Thái Lan, Đông Bắc và Bắc Myanma, qua bang Atxam của Ấn Độ, cho
đến Tây Bắc Campuchia và Bắc Malayxia. Các cộng đồng thuộc ngữ Hệ Thái thế giới
gồm khoảng hơn trăm triệu dân. Trong đó, Vương quốc Thái Lan chiếm khoảng trên
sáu mươi triệu người. Ở Lào, các tộc người Lào Lum đều thuộc ngữ hệ Thái, có
khoảng 3 triệu dân. Ngoài ra, người thuộc ngữ hệ Thái còn là dân tộc thiểu số
có dân số khá đông và tạo nên dải lãnh thổ liền khu ở các nước khác trong khu vực
Đông Nam Á của thế giới. Người ta chia cộng đồng ngữ hệ Thái này thành hai
ngành lớn: ngành phía Đông và ngành phía Tây. Sự phân chia đại quát đó phản ảnh
một thực tế các cộng đồng ngôn ngữ này đã chịu tác động lớn của hai nền văn hoá
khổng lồ: Trung Hoa (Phía Đông) và Ấn Độ (Phía Tây). Mặc dù phân chia như vậy,
nhưng trong sinh hoạt, tập quán canh tác, ngôn ngữ giao tiếp, văn học dân
gian... vẫn còn gần như là một. Họ vẫn có thể hiểu nhau và dễ đồng cảm nhau mỗi
khi có điều kiện tiếp xúc sau ít thời gian đầu bỡ ngỡ. Điều đó nói lên rằng các
cộng đồng này dù đã phân chia sâu sắc như ngày nay, nhưng đã có cùng một nguồn
gốc. Hơn thế, các cộng đồng cùng nguồn gốc này đã trải qua một thời kỳ lịch sử
lâu dài tồn tại và phát triển chung với nhau và giao lưu giữa họ vẫn còn tiếp tục
kéo dài cho đến ngày nay. Nhóm ngữ hệ Thái ở Việt Nam bao gồm 8 tộc người với
3.877.503 người (chiếm 5,08% dân số cả nước) sống chủ yếu ở khu vược Đông Bắc,
Tây Bắc và phía tây Thanh Hoá, Nghệ An, trong đó đông nhất là người Tày, người
Thái và người Nùng. Tộc người Tày gồm 1.447.513 người, sống tập trung ở các tỉnh
Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Quảng Ninh. Tộc
người Thái gồm 1.328.725 người sống chủ yếu ở các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Điện
Biên, Hoà Bình, Yên Bái và khu vực phía tây Thanh Hoá, Nghệ An. Tộc người Nùng
gồm 856.412 người sống chủ yếu ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái
Nguyên, Yên Bái, Tuyên Quang, Hà Giang, Quảng Ninh. Các tộc người Sán Chay:
147.315 người; Giáy: 49.098 người; Lào: 11.611 người; Lự: 4.964 người; Bố Y:
1.864 người đều sống ở khu vực miền núi Đông Bắc và Tây Bắc (Số liệu thống kê
01.4 1999). Dân tộc Thái ở Việt Nam cư trú khá tập trung trên giải đất liền từ
Tây Bắc đến tây Khu bốn cũ. Họ cư trú khắp toàn tỉnh Sơn La, Lai Châu, tập
trung thành các huyện thuộc các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ
An. Đặc điểm chung của dân tộc Thái là: Dùng cùng thứ văn tự chữ Thái. Trang phục
nữ căn bản thống nhất, chỉ khác về chi tiết. Có sách sử (Quam tô mương) căn bản
giống nhau, khác nhau nhỏ về chi tiết mang tính địa phương. Tuy vậy, dân tộc
Thái còn chia làm hai nhánh nữa: Thái Đen (Tay đăm) và Thái Trắng (Tay đón, Tay
khao). Trong đó Thái Đen là một khối thống nhất cao hơn về nhiều mặt, lãnh vực
cư trú liền nhau từ Mường Lò (Yên Bái) đến Mường Theng (Điện Biên) choán hầu hết
tỉnh Sơn La và nửa phía nam tỉnh Điện Biên, đông nam tỉnh Lai Châu, tây bắc tỉnh
Yên Bái; với quá nửa số dân Thái ở nước ta. Trong khi đó ngành Thái Trắng lại
còn chia thành các nhóm địa phương nhỏ hơn, địa bàn cư trú không liền nhau. Ta
thấy có các nhóm : Mường Lay, Phong Thổ, Quỳnh Nhai (Lay, Xo, Chiên) ở
phía Bắc. Mường Tấc (Phù Yên, Bắc Yên thuộc tỉnh Sơn La). Mường Sang (Mộc Châu
- Sơn La). Các nhóm Thái Hoà Bình (Mai Châu, Đài Bắc) gần với các nhóm Thái
Thanh Hoá. Nhóm Thái Thanh Hoá còn chia hai phân nhóm khác nhau: Tay Do, Tay
Đeng. Nhóm Thái Hoà Bình và Thanh Hoá cũng được gọi chung một cách không chính
xác là Tay Đeng (Thái Đỏ). Trong ký ức địa phương đồng bào nhận mình là Thái Trắng.
Các nhóm Thái ở Nghệ An việc chia ngành đen trắng đã mờ nhạt. Tuy có sự khác
nhau nhỏ ấy nhưng người Thái có chung một nền văn hoá dân tộc phong phú và đa dạng.
Ngôn ngữ là ngôn ngữ thống nhất của các phương ngữ, chữ viết là hệ chữ thống nhất
với vài chi tiết mang tính địa phương, có chung một nền nghệ thuật và văn học
đã phát triển khá cao. B. Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam Sống trên miền đất đai
Tây Bắc, người Thái đã trải qua một quá trình lao động để không ngừng biến đổi
tài nguyên thiên nhiên thành những sản phẩm cần thiết nhằm thoả mãn mọi nhu cầu
về ăn, ở, mặc, đi lại… Trên cơ sở đó các loại hình kinh tế đã hình thành làm
cho con người có thể thích nghi với hoàn cảnh tự nhiên, cải tạo nó đưa cuộc sống
tồn tại và phát triển. Muốn hiểu biết về các loại hình kinh tế thì trước hết phải
biết những đặc điểm tự nhiên và địa vực cư trú. I. Đặc điểm tự nhiên và địa vực
cư trú Vùng thiên nhiên Tây Bắc Việt Nam có rất nhiều núi, đồi cao thấp gối kề
nhau chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam xen lẫn với những vùng cao nguyên rộng
lớn, những vùng bình nguyên lòng chảo, những khe, vực,suối sông làm cho bề mặt
của đất trở nên lồi lõm đa dạng Trải qua các thế hệ xây dựng bản, mường với sức
lao động sáng tạo của mình, người Thái đã tạo ra một địa vực cư trú ổn định. Trừ
một số người sống lẻ tẻ xen lẫn với tộc anh em khác ở vùng rẻo giữa và rẻo cao,
hầu hết họ sống tập trung tương đối đông trong các thung lũng, bình nguyên lòng
chảo hay vùng cao nguyên mà ngày nay ta vẫn gọi chung là vùng thấp. Đất đai miền
Tây Băc có đến 21 loại phân bố trên các vùng. Riêng đất vùng thấp trũng cũng rất
phức tạp,nhìn chung phân thành 2 loại chủ yếu: Đất nguyên sinh và đất phù sa
chua rất phù hợp với nhiều loại cây trồng, nhất là lúa - loại lương thực chính
của đồng bào. Tuy sống ở vùng thấp, nhưng thực ra nơi cư trú của họ kề sát với
những chân núi cao. Ở đây, những nơi tương đối bằng phẳng hoặc dốc thoai thoải
có nước tưới thì đã được họ khai thác thành ruộng đồng. Bởi vậy nên hầu hết chỗ
ở và các hoạt động kinh tế khác đều được họ đưa lên sườn núi, những sườn núi
này có độ dốc rất cao và gồ ghề,hiểm trở. Vùng cư trú của người Thái còn là nơi
tập trung các con suối nhỏ chảy từ các khe núi hợp thành suối lớn, sông con để
rồi đổ vào sông cái. Mạng lưới sông suối khá dày đặc có độ cao từ 100 đến 600m.
Nước chảy xiết, độ dội mạnh và sức nước xói lòng cũng rất khoẻ, bởi vậy lòng
sông suối hẹp. Và như vậy sông suối đã chảy trong lòng các khe sâu, vực thẳm.Về
mùa nước, nước sông suối rất dữ dội song trải qua các thế hệ làm bạn với lũ người
dân cũng đã nắm được đặc tính của nó.Trên cơ sở biết được một phần chế độ sông
suối và đã có những biện pháp khắc phục, chế ngự nó Mường Thái vẫn bám rất chắc
trên những dải đất kề bên sông, suối trên miền rừng núi này. Đây là một vùng rất
có ưu thế về kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp cổ truyền. Bản, mường người
Thái còn tụ tập thành từng cụm trên những vùng cao nguyên rộng lớn của miền Tây
Bắc là nơi được hình thành trên cấu trúc của hệ thống đá vôi. Bởi vậy, ở nhiều
vùng trên mặt đất khô cằn háo nước nhưng bên dưới lòng đất lại có thể có hệ
thông suối, sông chảy ngầm. Sông suối ở Tây Bắc phân bố không đồng đều nên sự
phân bố về cư dân cũng không đều. Vùng lòng chảo rộng lớn như Mường Tấc mật độ
cư dân có thể đạt 40 người/km2 và ngược lại vùng cao nguyên Sơn La thì chỉ khoảng
20 người/km2 (năm 1971). Vùng cư trú của người Thái còn là những nơi tiếp cận với
rừng rậm nhiệt đới, á nhiệt đới. Sự giàu có về tài nguyên của rừng đã cung cấp
cho cuộc sống của cư dân ở Tây Bắc nguồn động thực vật phong phú, đây là vùng rừng
có quan hệ gần gũi với hệ thực vật lớn trên thế giới. Về chủng loại có đến 100
họ, 500 loại gỗ lớn, 30 loai tre nứa…Cây rừng có đủ loại ở vùng nhiệt đới, á
nhiệt đới, ôn đới. Có thể nói rừng là đối tượng của săn, hái luợm và nương rẫy.
Từ những đặc điểm của địa hình như thế nên đồng bào phải cư trú trên các vùng
tiểu khí hậu rất phức tạp. Nơi mưa ít, nơi mưa nhiều, có vùng thường bị úng nước
vào mùa mưa gọi là "lốm" "bôm" hay "phok". Có
vùng khô han hiêm nước gọi là “phiêng”. Về đại thể, nhiệt độ giữa các vùng người
Thái ở chênh lệch nhau từ 3 đến 4 độ. Mùa nóng mùa mưa bắt đầu từ tháng 5-6 đến
tháng 10 dương lịch. Mùa rét hanh khô bắt đầu từ tháng 10-11 đến tháng 4-5 lịch
Thái. Nhìn chung, vùng cư trú của người Thái có một thiên nhiên rất phong phú.
Sông, suối, rừng cây đã nuôi sống họ hàng thế kỷ nay. Đó chính là điều kiện rất
thuận lợi cho môi trường sống của họ. Tuy nhiên, khí hậu ở đây khá phức tạp, thời
tiết mỗi vùng mỗi khác, lại hay thay đổi đột ngột nhưng nhờ hàng chục thế kỷ
chung sống với nó nên cư dân Tây Bắc vẫn sống và phát triển được. Thiên nhiên của
vùng Tây Bắc là đối tượng tác động của người Thái. Sự tác đông đó được biểu hiện
trên các loại hình kinh tế. đạc biệt là ngành trồng trọt trong kinh tế của người
Thái. II. Trồng trọt Trên cơ sở những đặc điểm về tự nhiên, về địa vực cư trú,
về tập quán và kỹ thuật sản xuất… rõ ràng kinh tế trồng trọt là yếu tố quyết định
sự tồn tại xã hội của người Thái. Họ trồng nhiều loại cây nhưng chủ yếu là lúa.
Nền nông nghiệp mang tính độc canh rõ rệt. Đối tượng trồng trọt chủ yếu của đồng
bào là ruộng và nương, người Thái gọi lớp nông dân mình là ông nương bà ruộng
(po hay, mẹ na). 1. Ruộng Ruộng nước được người Thái gọi là “na” . “Na” của họ
là khoảng đất có mặt bằng, xung quanh có bờ ngăn giữ nước, để trồng lúa. Khâu
trồng lúa được nhấn mạnh để phân biệt giữa ruộng với ao, hồ. Như trên đã nói, từ
lâu, ruộng nước đã trở thành đối tượng lao động chủ yếu của cư dân Thái. Theo số
liệu thống kê năm 1967, số người Thái sống chủ yếu bằng ruộng chiếm 39,4%. Số
người sống ½ ruộng ½ nương chiếm 31,7% và số người sống chủ yếu bằng nương chiếm
28.9%. Người Thái có 2 cách phân loại ruộng nước: Cách phân loại theo tác động
của con người với tự nhiên và cách phân loại theochế độ xã hội.
1.1. Riêng cách phân loại theo tác động của con người với tự
nhiên có thể thấy biểu hiện trên 3 mặt dưới đây Phân loại ruộng nước theo địa
hình Do địa hình xen kẽ núi đồi, cao nguyên,lòng chảo với điều kiện có nguồn nước
nông dân Thái đã có 2 loại ruộng nước. Lọai ruộng ở 1 nơi bằng phẳng gọi là “na
tông”. Địa hình Tây Bắc núi non chắp nối nhau một cách liên tục nên sự bằng phẳng
của "na tông" chỉ mang ý nghĩa tương đối. Việc làm "na tông"
phải sử dụng kỹ thuật tạo bờ thửa để phân chia thành những ruộng cao, thấp,
ngang, dọc sao cho thích hợp với từng khu đất bằng trong toàn bộ vùng thung
lũng, lòng chảo hay cao nguyên có độ dốc. Loại ruộng ở các nơi eo hẹp men theo
chân núi hoặc trên sườn núi gọi là "na hon". "Na hon" là một
khu đất bị cắt nhỏ thành từng thửa ruộng. Một đặc điểm rất cơ bản của địa hình
để tạo ra khu "na hon" là không có mặt bằng tự nhiên, hoặc nếu có
cũng rất nhỏ hẹp. Bởi vậy, kỹ thuật phổ biến của việc làm "na hon"
bao giờ cũng tập trung vào khâu tạo mặt bằng. Trên cơ sở đó mới đắp bờ ngăn nước.
Phân loại theo nguồn nước Người Thái đã phân loại ruộng theo nguồn nước khớp với
hoàn cảnh tự nhiên, địa vực cư trú của mình. Ruộng phân loại theo nguồn nước có
hai tên gọi: "ruộng nước mưa" (na nặm phạ) và "ruộng nước ngâm"
(na nặm che). Ruộng nước mưa thường được phân bố trên những cao nguyên chỉ đủ
nước cấy 1 vụ. Đặc điểm cơ bản của nguồn nước tưới ruộng nước mưa la phải có 1
lượng ma tối đa để dất no nươcs, từ đó trên mặt đất sẽ xuất hiện những mạch ở
khắp nơi và những mạch đó sẽ do người điều khiển cho chảy tới ruộng. Ruộng nước
ngâm thường tập trung trong các thung lũng lòng chảo – vùng cư dân chủ yếu của
người Thái. Đặc điểm của loại ruộng này là con người có thể chủ động được nguồn
nước tưới, không phải chờ Trời mưa.Ruộng nước ngâm có thể gồm 3 bộ phận cấu
thành: "ruộng (na) mương phai", "ruộng rộc" (na huỏi hong
chong lộc) và "ruộng đầm lầy" (na bướm hay như Phú Yên gọi na lúng).
Phân loại theo hạng tốt xấu Hạng tốt bao gồm các thửa ruộng nằm trong loại “ruộng
mùn” (na há) Trong đó lại phân ra làm 2 hạng: Hạng tốt nhất gồm các thửa ruộng
nằm sát bản gọi là ruông mùn bản (na há bản). Hạng tốt vừa bao gồm các thửa ruộng
nằm kề miệng mương gọi là ruộng miệng mương (na pá mương). Hạng xấu thì chỉ có
một loại bao gồm các thửa ruộng nằm kề bên bãi cát, hoặc nằm ở cuối mương, lạch
gọi là "ruông bên cát, cuối nước" (na khó sái pai nặm). Các thửa ruộng
trung bình khác được xếp vào hạng trung bình gọi là "ruộng ở giữa"
(na xảo cang). Ý nghĩa của việc phân loại ruộng theo hạng tốt xấu và trung bình
đối với người Thái trước kia không hẳn đã nhằm mục đích để tác động các khâu kỹ
thuật, mà phân loại ruộng theo hạng là để đặt giống lúa cho hợp. Theo họ, việc
phân loại ruộng theo hạng, chủ yếu là do chất đất (đất nhiều mùn thì tốt không
nhiều mùn thì xấu) và do nước (ruộng chủ động nước thì tốt và nước thất thường
thì xấu).
1.2. Sự phân loại ruộng mang tính chất xã hội
a. Nước Biện pháp nước được người ta đặt lên hàng đầu trong
việc làm ruộng. Theo họ "có nước mới nên ruộng, có ruộng mưói nên lúa".
Trải qua hàng chục thế kỷ trên đồng ruộng nước, hệ thống thuỷ lợi của người
Thái đã tóm tắt trong câu thành ngữ: "mương, phai, lái, lín". Mương
là đường khai để dẫn nước vào ruộng. Có những con mương dài ngót chục cây số vắt
qua triền núi đá hoặc uốn mình men theo đường khúc khuỷu của chân đèo đầy chướng
ngại vật. Phai là 1 loại đập ngăn suối do người Thái dựng bằng gỗ, tre, nứa và
đất để dâng nước đổ vào mương chảy tới ruộng. Phai quyết định lưu lượng nước
trong mương. Do đó, việc làm phai là cực kỳ quan trọng. Để làm được phai trước
hết họ phải chọn được địa hình, địa vật thuận tiện. Đầu tiên, người ta đặt một
thân cây lớn xuống nước, cho 2 đầu tì vào diểm tựa của 2 bên bờ và để ngập 1 nửa
thân cây xuống đất ở đáy. Sau đó, đến lượt xếp gỗ và ken gỗ theo hình rẻ quạt gọi
là “dựng đầu phai”. Cuối cùng, đến việc lấy tre nứa đan thành phên ốp lên mặt
phai và đắp đất kín để mực nước dâng lên chảy vào mương và phần còn lại tràn
qua đậpgọi là "hắp phai" (tắt phai). Xưa theo quan niệm mê tín, Phai
còn là nơi ở của vị chủ suối (chẩu nặm). Chủ sông suối quyết định sự tồn tại của
phai, do đó người ta phải làm lễ cúng phai. Lái bao gồm những phai của hệ thống
cọn nước. Hệ thống cọn nước người Thái gọi là "lốc" và "cọn".
Khi “cọn” quay sẽ múc nước ở suối lên sẽ đổ vào hệ thống máng,mương con rồi đổ
vào ruộng. Lín là hệ thống mánh dẫn nước vào ruộng. Thường được làm bằng các loại
cây có dóng như bương, tre, vầu…máng có nhiều loại, mỗi loại có tác dụng riêng
như máng ngầm, máng ngắn dùng để đưa nước vào các thửa ruộng sát mương. Những
máng bắc qua sông, suối phải đặt trên cầu treo gọi là "cuộm". Hệ thống
thuỷ lợi mương, phai, lái, lín đã xuất hiện cùng với việc ổn định nơi cư trú,lập
bản dựng mường của người Thái.
b. Phân bón Trong phương thức canh tác của đồng bào biện
pháp phân hầu như không có gì nên cũng chưa có tập quán làm phân bón. Tuy
nhiên, bù lại nguồn phân tự nhiên ở vùng này khá dồi dào. Hàng năm, nguồn phân
bón tự nhiên đủ cấy 1 vụ lúa nếp. Phân bón tự nhiên có thể có 3 nguồn chủ yếu.
Những trận mưa xối xả hàng năm đã tải phù sa, mùn từ các khu rừng, núi ra sông,
suối nhập vào mương chảy về bón cho ruộng. Những trận mưa lớn cuốn từ bản, mường
vét phân đổ vào mương, máng ra ruộng. Những đống rơm rác, gốc rạ, phân gia súc
sau những tháng cánh đồng bỏ hoá đã mục rữa.
c. Các biện pháp kỹ thuật cổ truyền Theo kinh nghiệm cổ
truyền của người Thái các khâu liên hoàn được tập trung vào 2 giai đoạn: trước
khi cấy và sau khi cấy. Đồng bào rất coi trọng những khâu liên hoàn trước khi cấy.
Đó là những khâu: cày – giãy cỏ - phát bụi rậm - đắp bờ và bừa sau khi đã dẫn
nước tới ruộng. Hoàn thành các khâu đó, đồng ruộng của họ sẽ đạt tiêu chuẩn như
câu ngạn nhữ “ bóc trần, giãy sạch ”(háy lỏn, chọn khao). Để hoàn thành các
khâu trong giai đoạn này, họ đã dùng 4 công cụ chủ yếu: dao – cày – mai - bừa.
Trong 4 công cụ này người Thái chỉ giải quyết được dao va bừa, còn lưỡi càyvà
mai đều phải du nhập từ Mường Puồn ( Sầm Nưa - Thượng Lào). Theo phong tục tập
quán cũ, sau khi cày xong người ta cất cày ở nơi thờ cúng tổ tiên. Do đặc điểm
địa hình bố trí ruộng bậc thang nên việc đắp bờ để giữ nước là rất quan trọng.
Muốn đắp bờ cần có cái mai. Kỹ thuật đắp bờ và sạch bờ của ruộng phải đạt tiêu
chuẩn “trơn nhẵn, lựa bôi dầu ” (nặm mắn cắn kiểng) việc bừa được tiến hành kỹ
càng đủ để làm đất nhuyễn hoà với nước đủu sức cho rễ lúa phát triển. Vấn đề cấy
cũng được người ta đặt ra thành khâu đảm bảo cho sự phát triển của cây lúa nước.
Cấy được người Thái coi như khâu quyết định đúng sai thời vụ, thời vụ lại quyết
định sự thành bại của mùa lúa, do đó việc cấy phải đảm bảo đúng ngày tháng. Ca
dao Thái có câu: “Tháng 10 (tháng 3 dương lịch) nhánh mạ xuống ruộng lo” Và cấy
vụ mùa thường phải nghe tiếng kêu của con “ mèng ngoạng” Đó là loại ve sầu to
kêu vào đầu mùa mưa vang núi , vang rừng. Các biện pháp kỹ thuật khác như :
Tháo cạc ruộng sau một nửa tháng để chân mạ bám chắc rễ vào đất gọi là "khan"
. Tiếp sang biện pháp làm cỏ, phát bờ khoảng 2 – 3 lượt rồi bước vào vụ thu hoạch,
kết thúc vụ mùa. Giống Ở ruộng nước trồng lúa nếp người Thái chọn được hàng
trăm thứ giống thích nghi từng loại ruộng. Có 2 loai chủ yếu: Một là giống nếp "tan"
phải cấy trên các thửa ruộng có nước, có nhiều mùn như "ruộng miệng mương",
"ruộng mùn bản". Nếo tan có nhiều đạm, thân cây chắc, gạo thơm ngon nổi
tiếng. Hai là giống nếp “nhoi” mà nay ta thường gọi là "nếp thường". Nếp
nhoi cũng có hàng chục thứ để thích nghi từng loại ruộng trừ "ruộng mùn"
song phổ biến hơn cả là thứ nếp gọi là "la", "bong". Người
Thái xưa cũng đã có những lúa tẻ gọi là "khẩu chăm" ( lúa chiêm) hay "khẩu
sẻ" (lúa tẻ). Theo tập quán cũ của họ, gạo tẻ để giải quyết vụ đói hoặc để
tiếp khách, ăn chơi. Đặc biệt, ở Phù Yên người ta đã có 1 giống tẻ gọi là "lúa
chăm kim" ( khẩu chăm khêm) chuyên cấy trên ruộng lầy, loại ruông không
dùng cày, bừa mà dùng tay chân sục cho bùn, cỏ hoà nhuyễn rồi cấy luôn. Đây là
lối canh tác gọi là "thuỷ nậu" (sục bùn) mà các sách xưa đã ghi chép.
Mặc dù còn nhiều biện pháp kỹ thuật thô sơ, nhưng với số kinh nghiệm đã thu được,
đồng bào Thái đã khai thác được nhiều của cải vật chất trong lĩnh vực làm ruộng
nước. Chính nhờ những kinh nghiệm đó mà đồng bào đã thích nghi, tồn tại và phát
triển được trong vùng cư trú của mình với tất cả đặc điểm tự nhiên (đất đai,
khí hậu, sông suối, rừng núi ) có ở miền đất phía Tây của tổ quổc. Người Thái
đã thực sự trở thành một dân tộc nông nghiệp, trong đó việc làm ruộng nước đóng
vai trò chủ đạo.
2. Nương Trong cuộc sống xưa của người Thái, nương có nhiều
tác dụng. Trong khi trên mặt ruộng chỉ độc canh lúa, trên mặt nương cho phép trồng
nhiều loại cây khác nhau nhu ngô, sắn, vừng, lạc , bông, chàm… và có thể thực
hiện việc xen canh nhiều loại cây trồng, nhờ thế đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Hơn nữa, cái nổi bật vẫn là thiên nhiên Tây Bắc tuy có 1 mạng lưới sông suối
dày đặc nhưng phân bố không đều. Vì thiếu nước và thiếu địa điểm để tạo ra ruộngở
mọi nơi nên nhiều vung, nhiều nhóm cư dân đã phải chủ yếu sinh sống bằng nương.
Tuy nhiên, những cư dân chuyên sinh sống bằng nương đã mất hoàn toàn ưu thế định
canh định cư của người làm ruộng nước.Họ không còn có bản ổn định để có thể "trồng
trầu bám chắc rễ, trồng quả mọc thành cây" (tục ngữ: púk pú pên hạ, púk
mák pên co ) Đã dựa vào nương thì cuộc sống bắt buộc phải trong tình trạng "ba
ngày chuyển nhà, ba tháng rời bản" (tục ngữ: xam mại nhạn hướn, xam bượn
nhại bản). Do đó, cuộc sống khó khăn đói kém, việc bỏ ruộng đi làm nương chỉ là
sự miễn cưỡng. Nương của người Thái co nhiều lại: nương dốc, nương bằng, nương
vụ một, nương vu hai, nương lúa, nương chàm…Song nếu phân theo loại hình kinh tế
thì có 2 loại: Nương cày thuộc loại hình nông nghiệp dùng cày trên đất khô vì
phải dùng đến sức kéo của đại gia súc như Trâu. Nương thuộc loại hình này phổ
biến ở người Hà Nhì, người Mèo. Người Thái ở một vài nơi thuộc các châu miền Bắc
cũng học tập đồng bào Mèo áp dụng kỹ thuật cày nương nhưng chưa giỏi. Phổ biến
hơn cả vẫn là loại hình kinh tế nông nghiệp cùng cuốc hay dùng tay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét