Associate Professor -
Doctor Hoang Nam
Vietnam is the homeland
of many nationalities. All are descendants of Lac Long Quan and Au Co, hatching
out of a hundred eggs, half of them following their mother to the mountain, the
other half accompanying their father to the sea. They joined hands to build the
nation from "Three mountains, four seas and the land mass", with
endless forests and mountains, delta plains stretching as far as the eyes can see
and the Eastern Sea rippling Is waves all the four seasons. It is a land
stretching from the high peak of Lung Cu (north) to the hamlet of Rach Tau
(south) and from the Truong Son Range (west) to the Truong Sa archipelago
(east).
Living together in one country
from time immemorial, all the nationalities develop a tradition of patriotism
and unite and assist mutually in the conquest of nature and in social struggle,
throughout the historic process of national construction, defence and
development.
The history of the
conquest of nature is really an epic, manifesting the creative innovation,
vitally, determination to surmount all obstacles, adaptability to natural
conditions of each ethnic group to produce, subsist and develop. People of
various nationalities have found out different patterns to cope with nature,
appropriate to specific natural geographical conditions.
In the lowland and
mid-land regions, people work the ricefields to grow wet rice and build village
culture on the background of communal houses, wells, banyan trees and green
bamboo groves. The delta plain, agriculture, villages and hamlets constitute a
source of inspiration for the making of multipanel robes, rose-coloured bodices
and hats with fringed chin strap, for the composition of folk songs, love duets
and folk verses familiar with specific regions.
In the mountain areas,
people grow wet rice in valleys, develop terraced fields for dry crops,
especially corn, and begin to plant perennial trees such as anise and cinnamon,
in replacement of natural forests. They live in houses built on stilts, wear
trousers or jupes and indigo vests with design motifs imitating wild flowers
and beasts. It is their habit to drink can (bamboo pipes) wine from jars.
In the northern uplands
and the Central Highlands, people clear and burn jungle patches as a method of
farming in the pre-industry age. With a sub-tropical climate, cultivation is
chiefly carried out in summer and autumn. For acclimatization and the raising
of land utility rate, the highlanders from time immemorial have developed
multi-cropping to generate further income and prevent soil erosion. With their
dexterity and sense of aesthetics, the young women have made skins and vests
with beautiful and colourful decorations and in a style convenient to farming
work in terraced fields and to traved on hill slopes and mountain gorges. The
generous forests and mountains and backward farming methods give rise to
mythical rituals with propitious conditions for their development. Almost all
regions in the Central Highlands hold buffalo-stabbing ceremonies in honour of Giang (Heaven) to pray for health, for the
good of livestock breeding and for bumper crops. These regions harbour
innumerable legendary stories and gallant chronicles, the value of which is
comparable to those of China and India but their collection and study are still
inadequate. These ethnic minorities are the creators of stone xylophones, T'rung and Krongputmusical
instruments, sets of gongs and group dances, rich of community colours.
Along the coastline from
north to south, people live on fishing. In the morning fishing boats sail out
to the open sea and in the evening return to the shore. The life here is
bustling with activity as is in farming areas at harvest time.
Everywhere, man lives in
harmony with nature and nature does not betray human efforts.
Lying in the Indochinese
peninsular, the gateway to mainland and offshore Southeast Asia, Vietnam is the
location of cultural intercourse in this region, with three major language
families, I-e. Austro-Asian Language Family, Austronesian Language Family and
Sino-Tibetan Language Family. The Vietnamese speak the languages of eight
different groups. Of which the Viet-Muong Group includes four ethnic groups:
the Chut, Kinh, Muong and Tho; the Tay-Thai Group includes eight ethnic groups:
the Bo Y, Giay, Lao, Lu, Nung, San Chay, Tay and Thai; the Mon-Khmer Group
includes 21 ethnic groups such as the Ba Na, Brau, Bru-Van Kieu, Cho-ro, Co,
Co-ho, Co-tu, Gie-trieng, Hre, Khang, Khmer, Kho Mu, Ma, Mang, M'Nong, O-du,
Ro-mam, Ta-oi, Xinh-mun, Xo-dang and Xtieng; the Mong-Dao Group includes the
Dao, Mong and Pa Then; the Kadai Group includes the Co Lao, La Chi, La Ha and
Pu Peo; the Malayo-Polynesian Group includes the Cham, Chu-ru, Ede, Gia-rai and
Ra-glai; the Han Group includes the Hoa, Ngai and San Diu; the Tibeto-Burman
Group includes the Gong, Ha Nhi, La Hu, Lo Lo, Phu La and Si-la.
Although they speak
different languages, the ethnic groups live close to one another and so one
group can know the language of others through everyday relations, and although
they are involved in cultural exchange, they keep retaining the identity of
their own culture. The diversity of the cultures of ethnic groups does not take
them off the track of the common development of the nation, just as the
peculiarity is in tune with the generality in the dual category of philosophy.
The Ho Chi Minh Era
which started with the triumph of the 1945 August Revolution has brought about
a great change in the life of the national community. The consistent policy put
forth by the Party and State on nationalities boils down to equality, unity,
mutual assistance and alliance in the building of the country for the
prosperity of the people, for the might of the country, and for a just and a
civilized society imbued with national identity.
The promulgation of this
correct and innovative policy in the socio-economic field has yielded
successes, very big, very new and very modern. The infrastructure, especially
land communication, water resource and telecommunication, has reached the
districts and gradually the villages and hamlets at a pace depending on the
specific conditions of each region. As masters of the country, the ethnic
groups are taking part in State organs of authority at an increasing rate. The
Party and the State pay concern to the training of scientific and technical
workers. The number of cadres of ethnic groups possessing university or higher
degree is on the increase. The treasure of traditional culture and art of
various ethnic groups has been collected, preserved, studied and promoted.
As a result of the
successful promulgation of the Party policy on nationalities, people of various
nationalities who have been working together in the cause of national
construction and defense are strengthening their solidarity still further for
the sake of national development. The achievements as mentioned above
constitute the solid foundation for the consolidation of the block of great
national union, for the improvement of the people's level of education and
their living standards and for the advancement of all nationalities.
|
Bản tiếng Việt Nam
HÌNH ẢNH CỘNG ĐỒNG 54
DÂN TỘC VIỆT NAM
LỜI GIỚI THIỆU
Phó Giáo sư - Phó Tiến Sỹ:
Hoàng Nam
Việt Nam - tổ quốc của
nhiều dân tộc. Các dân tộc cùng là con cháu của Lạc Long Quân - Âu Cơ, nở ra từ
trăm trứng, nửa theo mẹ lên núi, nửa theo cha xuống biển, cùng mở mang xây dựng
non sông "Tam sơn, tứ hải, nhất phần điền", với rừng núi trùng điệp,
đồng bằng sải cánh cò bay và biển Đông bốn mùa sóng vỗ; bờ cõi liền một dải từ
chỏm Lũng Cú (Bắc) đến xóm Rạch Tàu (Nam), từ đỉnh Trường Sơn (Tây) đến quần đảo
Trường Sa (Đông).
Cùng chung sống lâu đời
trên một đất nước, các dân tộc có truyền thống yêu nước, đoàn kết giúp đỡ nhau
trong chinh phục thiên nhiên và đấu tranh xã hội, suốt quá trình lịch sử dựng
nước, giữ nước và xây dựng phát triển đất nước.
Lịch sử chinh phục thiên
nhiên là bài ca hùng tráng, thể hiện sự sáng tạo và sức sống mãnh liệt, vượt
lên mọi trở ngại thích ứng với điều kiện tự nhiên để sản xuất, tồn tại và phát
triển của từng dân tộc. Với điều kiện địa lý tự nhiên (địa mạo, đất đai, khí hậu...)
khác nhau, các dân tộc đã tìm ra phương thức ứng xử thiên nhiên khác nhau.
ở đồng bằng và trung du,
các dân tộc làm ruộng, cấy lúa nước, dựng nên nền văn hoá xóm làng với trung
tâm là đình làng, giếng nước cây đa, bao bọc bởi luỹ tre gai góc đầy sức sống dẻo
dai. Đồng bằng, nghề nông, xóm làng là nguồn cảm hứng, là "bột" của
những tấm áo mớ ba mớ bảy, của dải yếm đào cùng nón quai thao, của làn điệu
quan họ khoan thai mượt mà và của khúc dân ca Nam Bộ ngân dài chứa đựng sự mênh
mông của đồng bằng sông Cửu Long.
ở vùng thấp của miền
núi, các dân tộc trồng lúa nước kết hợp với sản xuất trên khô để trồng lúa
nương, trồng ngô, bước đầu trồng các cây công nghiệp lâu năm (cây hồi, cây quế...),
thay thế cho rừng tự nhiên. Họ sống trên những nếp nhà sàn, mặc quần, váy, áo
màu chàm với nhiều mô típ hoa văn mô phỏng hoa rừng, thú rừng. Đồng bào có tục
uống rượu cần thể hiện tình cảm cộng đồng sâu sắc. Người uống ngây ngất bởi hơi
men và đắm say bởi tình người.
ở vùng cao Việt Bắc, Tây
Nguyên, đồng bào chọn phương thức phát rừng làm rẫy - là cách ứng xử thiên
nhiên của thời đại tiền công nghiệp. Vùng cao, khí hậu á nhiệt đới, việc trồng
trọt chủ yếu thực hiện trong vụ hè thu. Để tranh thủ thời tiết và quay vòng đất,
từ ngàn xưa người vùng cao đã phát triển xen canh gối vụ, vừa tăng thu nhập vừa
bảo vệ đất khỏi bị xói mòn bởi những cơn mưa rào mùa hạ. Bàn tay khéo léo và
tâm hồn thẩm mỹ của các cô gái đã tạo ra những bộ trang phục: váy, áo với những
hoa văn sặc sỡ hài hoà về mầu sắc, đa dạng về mô típ, mềm mại về kiểu dáng, thuận
cho lao động trên nương, tiện cho việc đi lại trên đường đèo, dốc. Núi rừng
hoang sơ cùng với phương thức canh tác lạc hậu là mảnh đất phát sinh và phát
triển các lễ nghi đầy tính huyền bí, huyền ảo. Hầu hết các cư dân Tây Nguyên đều
có tục đâm trâu làm lễ cúng Giàng (trời), cầu xin sự phù hộ của Giàng cho người
sức khoẻ, cho gia súc và cho mùa màng bội thu. Đây cũng là vùng tiềm ẩn nhiều
truyện thần thoại, nhiều sử thi anh hùng mà giá trị của nó có thể sánh được với
các truyện thần thoại của Trung Quốc, ấn Độ nhưng chưa được sưu tầm và nghiên cứu
đầy đủ. Đồng bào là chủ nhân sáng tạo ra những bộ đàn đá, đàn T'rưng, đàn Krông
pút... những bộ cồng chiêng và những điệu múa tập thể dân dã, khẻo khoắn kết bó
cộng đồng.
Dọc theo bờ biển từ Bắc
vào Nam, các dân tộc sống bằng nghề chài lưới. Cứ sáng sáng đoàn thuyền của ngư
dân giăng buồm ra khơi, chiều lại quay về lộng. Cuộc sống ở đây cũng nhộn nhịp,
khẩn trương như nông dân trên đồng ruộng ngày mùa.
Ở khắp nơi, con
người hoà nhập vào thiên nhiên, thiên nhiên cũng biết chiều lòng người, không
phụ công sức người.
Sống trên mảnh đất Đông
Dương - nơi cửa ngõ nối Đông Nam á lục địa với Đông Nam á hải đảo, Việt Nam là
nơi giao lưu của các nền văn hoá trong khu vực. ở đây có đủ 3 ngữ hệ lớn trong
khu vực Đông Nam á, ngữ hệ Nam đảo, và ngữ hệ Hán - Tạng. Tiếng nói của các dân
tộc Việt Nam thuộc 8 nhóm ngôn ngữ khác nhau.
Nhóm Việt - Mường có 4
dân tộc là: Chứt, Kinh, Mường, Thổ.
Nhóm Tày - Thái có 8 dân
tộc là: Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Tày, Thái.
Nhóm Môn - Khmer có 21
dân tộc là: Ba na, Brâu, Bru-Vân kiều, Chơ-ro, Co, Cơ-ho, Cơ-tu, Gié-triêng,
Hrê, Kháng, Khmer, Khơ mú, Mạ, Mảng, M'Nông, Ơ-đu, Rơ-măm, Tà-ôi, Xinh-mun,
Xơ-đăng, Xtiêng.
Nhóm Mông - Dao có 3 dân
tộc là: Dao, Mông, Pà thẻn.
Nhóm Kađai có 4 dân tộc là: Cờ lao, La Chí, La ha, Pu péo.
Nhóm Nam đảo có 5 dân tộc là: Chăm, Chu-ru, Ê đê, Gia-rai,
Ra-glai.
Nhóm Hán có 3 dân tộc là: Hoa, Ngái, Sán dìu.
Nhóm Tạng có 6 dân tộc là: Cống, Hà nhì, La hủ, Lô lô, Phù
lá, Si la.
Mặc dù tiếng nói của các dân tộc thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ
khác nhau, song do các dân tộc sống rất xen kẽ với nhau nên một dân tộc thường
biết tiếng các dân tộc có quan hệ hàng ngày, và dù sống xen kẽ với nhau, giao
lưu văn hoá với nhau, nhưng các dân tộc vẫn lưu giữ được bản sắc văn hoá riêng
của dân tộc mình. ở đây cái đa dạng của văn hoá dân tộc được thống nhất trong
quy luật chung - quy luật phát triển đi lên của đất nước, như cái riêng thống
nhất trong cái chung của cặp phạm trù triết học.
Thời đại Hồ Chí Minh mở đầu bằng thắng lợi của cách mạng
tháng 8/1945 đã đổi đời các dân tộc. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
nhất quán từ đầu là bình đẳng, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng
đất nước theo mục tiêu: dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, văn hoá
đậm đà bản sắc dân tộc.
Thực hiện chính sách dân tộc đúng đắn và sáng tạo trong các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, chúng ta đã đạt được những thành tựu rất to lớn, rất
mới mẻ, rất hiện đại. Cơ sở hạ tầng đặc biệt là giao thông đường bộ, thuỷ lợi,
viễn thông đã phát triển đến tuyến huyện và đang chuyển dần về xã, bản, nhanh,
chậm tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng vùng. Với tư cách là người làm chủ
đất nước, các dân tộc tham gia vào cơ quan quyền lực Nhà nước ngày càng nhiều,
cao hơn. Đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật được Đảng và Nhà nước quan tâm đào
tạo. Số cán bộ có trình độ đại học và trên đại học ngày càng tăng trong các dân
tộc. Vốn văn hoá, nghệ thuật cổ truyền của các dân tộc được sưu tầm, bảo tồn,
nghiên cứu, phát huy.
Thực hiện thắng lợi chính sách dân tộc của Đảng, các dân tộc
vốn gắn bó với nhau trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, nay lại càng gắn bó
đoàn kết với nhau hơn trong công cuộc xây dựng đất nước. Những thành tựu đạt được
trên là cơ sở vững chắc góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, nâng cao
dân trí, nâng cao đời sống, phát triển các dân tộc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét