Những người mai mối bên Nam và Nữ |
Mỗi một con người, dù ở bất kỳ dân tộc nào, ngay từ khi
sinh ra đã chịu sự chi phối của các phong tục, tập quán trong các giá trị văn
hóa cộng đồng. Chúng gắn bó với mỗi người trong suốt hành trình của cuộc đời bằng
các quan niệm lễ thức. Nghi lễ hôn nhân là một trong số những nghi lễ, mà ở đó,
các đặc trưng phong tục tập quán, tư tưởng nhân sinh quan của từng dân tộc được
thể hiện rõ rệt. Nó không chỉ xác nhận sự tồn tại một gia đình mới, một thành
viên trong cộng đồng, mà thông qua đó, những tín hiệu, giá trị văn hóa tộc người
được trao truyền.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi quan tâm đến một
khía cạnh của nghi lễ hôn nhân, đó là vai trò của Mờ (người mai mối) trong hôn nhân của người
Thái đen ở Mường Lò (huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái).
Tục ngữ người Thái có câu “Nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ
Tấc” để chỉ sự rộng lớn, giàu có, đông đúc cũng như những dấu ấn văn hóa đậm
nét của tộc người tại những địa phương này. Quả vậy, theo điều tra dân số năm
1999, người Thái ở tỉnh Yên Bái có khoảng hơn 40.000 người, cư trú tập trung tại
vùng thung lũng Mường Lò (huyện Văn Chấn) và một số vùng phụ cận. Mật độ dân số
và phương thức cư trú quần tập theo sự cố kết tộc người như vậy đã tạo nên một
bản sắc văn hóa vô cùng phong phú.
Người mai mối bên Nam |
Đối với người Thái đen ở Mường Lò, những đặc trưng văn hóa
trong quan hệ hôn nhân được biểu hiện vô cùng phong phú, đặc biệt là khi chức
năng của các thành viên chịu trách nhiệm tác thành một gia đình mới không chỉ dừng
lại ở việc tổ chức xong lễ cưới mà nó còn có vai trò xuyên suốt quá trình duy
trì, tiếp nối và tổ chức cuộc sống sau hôn nhân. Nhiệm vụ của họ chỉ hoàn thành
khi họ xuôi tay về đất. Trong nghi lễ hôn nhân của người Thái đen, ngoài vai
trò chính của hai bên gia đình thì Mờ (người mai mối) là một nhân tố không
thể thiếu.
Mờ (người mai mối)
Khác với Mo, Một, trong xã hội người Thái, Mờ không phải là một nghề thực sự,
do vậy không có cá nhân nào chỉ chuyên làm Mờ. Người Thái đen ở Mường Lò chọn
người làm mai mối cho hôn nhân của con, cháu họ theo cách riêng, phụ thuộc rất
nhiều vào các quan hệ chồng chéo phức tạp trong xã hội như quan hệ dòng họ, cộng
đồng, hay đơn giản chỉ là những cảm tình cá nhân về tư chất của người được chọn.
Ngoài thuật ngữ Mờ, để chỉ người mai mối, người Thái đen còn dùng thuật ngữ
"Po Sư" để chỉ ông mối và bà mối là "Me Lam",
tuy nhiên, Mờ là thuật ngữ phổ biến hơn cả.
Người được chọn làm Mờ thường hội tụ những tiêu chí
sau:
- Là người trung tuổi, có gia đình mẫu mực, làm ăn kinh tế
giỏi.
- Ngoại hình tương đối ưa nhìn, không thiếu khuyết, là người
hoạt ngôn, quảng giao.
- Có quan hệ thân thiện với phía gia đình nhà gái.
Nếu như người Thái ở Hòa Bình, Lai Châu thường chọn Mờ là đàn ông thì người Thái đen ở
Mường Lò lại thích Mờ là phụ nữ. Đồng bào cho rằng, với
tâm tính nhu thuần, ngọt ngào của người phụ nữ công việc hôn lễ sẽ trôi chảy,
thuận lợi.
Không chỉ gia đình đằng trai mới nhờ người làm Mờ mà gia đình đằng gái, sau khi nhận được
lời ngỏ của Mờ đằng trai, cũng chọn một người
đại diện cho gia đình mình tiếp chuyện và cùng định đoạt cuộc hôn nhân của con
cháu họ, người này cũng được gọi là Mờ.
Thông thường, Mờ đằng gái là người trong họ, có
hiểu biết, quan hệ rộng, đặt biệt là với Mờvà
gia đình đằng trai. Để cân xứng và thuận tiện giao tiếp, nếu đằng trai cử Mờ là phụ nữ, nhà gái sẽ chọn một
người phụ nữ và ngược lại.
Sau khi được chọn và chính thức nhận lời, Mờ thực sự gắn kết và trở thành
người có ý nghĩa đặc biệt, xuyên suốt cuộc hôn nhân của đôi trẻ.
Giai đoạn tìm hiểu và dạm hỏi
Việc đầu tiên của Mờ là đánh tiếng với gia đình nhà gái. Chọn
một dịp thuận tiện, như đi chợ, hội họp trong làng bản...Mờ chủ động đặt vấn đề với gia đình đằng
gái, thường là trực tiếp với cha, mẹ cô gái. Đồng thời Mờ cũng cung cấp thông tin về nhân thân
và gia đình chàng trai như dòng họ, tuổi tác, thành phần gia đình... Gia đình
nhà gái sau khi nhận được lời ngỏ sẽ bày tỏ ý kiến của mình, nếu con gái họ đã
có nơi hỏi, hoặc không đồng ý, họ sẽ tế nhị từ chối. Ngược lại, nếu thấy ưng,
hoặc tiên liệu được sự thành công của hôn nhân, thông qua Mờ, họ sẽ cung cấp các thông
tin riêng của gia đình, của bản thân cô gái được hỏi.
Cũng vậy, sau khi tiếp xúc với gia đình nhà gái và qua các
kênh thông tin riêng của mình, Mờ chủ động báo lại cho gia đình chàng
trai những thông tin về cô gái và gia đình cô. Với bất kỳ dân tộc nào, việc dựng
vợ gả chồng luôn được coi là trọng đại nên phải lựa chọn kỹ càng "lựa
mía bấng mé nái, lựa quai bấng mé tổn lang" (Chọn vợ trông mẹ vợ, chọn trâu trông con
đầu đàn). Qua các thông tin của Mờ cũng như qua việc tiếp xúc hằng
ngày trong cộng đồng, gia đình đằng trai quyết định chính thức tiếp tục hay dừng
lại việc tác thành cho cuộc hôn nhân. Nếu ưng, cùng với Mờ, họ chọn ngày đi dạm. Một
công việc không thể thiếu đó là sau khi nhận được thông tin về tuổi tác, dòng họ
của gia đình nhà gái, cha mẹ chàng trai chủ động nhờ Mo, hoặc một người có khả
năng đoán số, đoán tuổi, vận hạn của đôi trẻ khi chúng nên đôi lứa. Nếu kết quả
thuận lợi, việc hôn nhân coi như đã được định đoạt và có thành công bước đầu.
Mở lời (pay ổ/chom pạư)
Được sự mở lời của nhà
gái, nhà trai sẽ lựa chọn ngày tốt để đi dạm. Việc đi dạm này được phó thác cho Mờ. Cùng với chú rể, Mờ sang tiếp kiến gia đình nhà
gái. Lễ vật đi dạm tương đối đơn giản, gồm hai gói trầu, hai gói cau, hai chai
rượu và một cặp gà... Nhà gái, cùng với một vài người có uy tín trong dòng họ,
bày mâm tiếp rượu. Sau vài tuần rượu chào hỏi, Mờ sẽ mở lời với gia đình nhà gái
bằng một bài “khắp Tay” đại ý: "Chúng
tôi được tổ tiên thí cho đứa con trai, ông bà được ban cho đứa con gái, bao
nhiêu công lao cha mẹ khó nhọc, nuôi con từ khi bàn chân còn bằng hai ngón tay,
thời gian không quản, nay chúng đã lớn, muốn làm bạn trăm năm, xin ông bà tác
thành cho chúng, chúng tôi cũng được phận nhờ". Đáp lại những lời đẹp
đẽ, mượt mà đó, Mờ đại diện cho gia đình đằng gái, cũng
thể hiện một khúc hát khiêm tốn nhưng chứa chan tình cảm: "Chúng tôi
có con gái, lớn rồi mà chưa khôn, còn dại dột vụng về, chưa biết làm người,
chưa có người đến hỏi, nay ông bà không chê, nhận làm dâu làm con, phúc đức cho
gia đình tôi quá...". Sau khi lời đã mở, rượu ngọt thấm mềm môi, lòng
người cũng lâng lâng hạnh phúc, họ trao nhau lời hay ý đẹp và thực sự "ôm
mộng về nhà lúc xế vầng trăng". Điệu hát "luống ỉn, luống
quà", tỏ lòng khăng khít quyến luyến không rời, cứ mãi ngân vang. Khi
ra về, Mờ không quên “ngỏ lời” mời gia
đình nhà gái sang chơi thăm nhà trai.
Nhận lời mời, gia đình
nhà gái cử Mờ và một vài người đại diện cho gia
đình, dòng họ mình sang chơi nhà trai. Thông thường, họ không mang theo lễ vật
gì. Tới nơi, nhà trai mở tiệc chiêu đãi, họ nói chuyện, chúc tụng, ăn uống vui
vẻ. Ngày giờ làm đám ăn hỏi, đám cưới, cũng được nhà trai đưa ra bàn luận và thống
nhất với gia đình nhà gái. Xuyên suốt quá trình này là vai trò của Mờ, chính Mờ là người đưa ý kiến bình luận
cũng như hoạt náo cuộc chuyện và thúc đẩy giải quyết hầu hết mọi khúc mắc, mâu
thuẫn một cách nhanh gọn. Tàn tiệc, nhà trai gửi quà kèm theo, thông thường quà
gồm có gà luộc, xôi, rượu và hoa quả. Số lượng tùy thuộc vào khả năng và thịnh
tình của hai bên. Nhà gái ra về, mở lễ vật nhà trai gửi tặng mời người trong
gia đình, họ hàng tới dự và bàn luận về đám cưới. Nếu không nhất trí việc hôn
nhân, nội trong hai ngày gia đình nhà gái phải nhờ Mờ tới đằng trai từ hôn. Nếu không có dấu
hiệu trả lời, cuộc hôn nhân coi như đã được sắp xếp.
Lễ ăn hỏi (Pay tham pạư/căm
kin nọi)
Đến ngày lành tháng tốt, Mờ dẫn chú rể cùng họ hàng nhà
trai sang nhà gái hỏi vợ. Số người đi hỏi chỉ được hợp thành con số chẵn, thường
là 4 đến 6 người, không kể những người mang vác lễ vật (số người mang lễ vật
cũng phải là số chẵn). Lễ vật mang theo gồm có 1 cặp gà sống, bốn con gà luộc,
50 lít rượu, 50 cân gạo, 6 cặp cá sấy và 12 lá trầu, 12 miếng cau, 12 miếng vỏ
được gói trong giấy nhuộm đỏ.
Nhà gái nhận đồ lễ, làm
cơm cúng ma "cọ hóng" (buồng thờ "cọ hóng"
của người Thái đen thường được bố trí góc phải cuối hồi nhà, tính từ cửa vào,
thường gọi là buồng ma xó, thờ tổ tiên). Mo sẽ được mời đến để cúng. Cúng xong,
họ dọn mâm, hai Mờ cùng với 4 người đại diện cho hai bên
gia đình được mời lên ngồi mâm trên, họ vui vẻ chúc tụng hôn nhân. Đặc biệt,
trong nghi lễ này vai trò của Mờ càng được củng cố, chính Mờ là người chủ trì, buổi lễ theo phong tục
của địa phương. Bằng những lời hát "khắp bản xao, khắp khiên tỏ"
họ trao đổi qua lại, tình thâm khăng khít. Đôi khi những lời hát như vậy được cất
lên ngay trong cuộc rượu, khi Mờ cất tiếng hát, hai bên gia đình lắng
nghe chăm chú,Mờ chưa dứt
lời, họ đã trầm trồ, tỏ ý tâm đắc, vui mừng. Cuộc hát cứ thế kéo dài tưởng chừng
như bất tận.
Mờ nhà trai: Thấy ánh lửa
sáng ở phía xa, thấy nước nguồn sâu trong xanh mát ngọt, muốn đến tận hưởng nước
ngọt lành, trông thấy áo chàm thơm muốn thử mặc, trông thấy má hồng xinh tươi
muốn xin làm rể...
Mờ nhà gái: Anh ở đâu đến
đất mường này, phận gái nào dám có lời, gia đình anh có lòng, vui mừng lắm
nhưng chỉ lo duyên số không hợp...
Cuộc hát được đẩy lên
cao trào khi nhà gái hát “chê dâu”: Đi
nương thì nói xấu em cô, đi ruộng lại nói xấu bố mẹ chồng, lên dốc thì chửi anh
chồng, đi xúc cá chửi chị bên chồng...
Lời hát của nhà gái càng
cường điệu tính xấu, nói những lời từ chối, rã đám thì nhà trai càng tỏ ra quyết
tâm phải lấy dâu bằng được: Không
lấy được dâu này sẽ không chịu thôi, vách đá cao dựng đứng thì lấy búa bổ dọc mở
đường đón dâu, suối nước đầy thì rẽ nước lấy lối, đưa dâu này qua. Tiết gà quyện
tiết quạ cũng bằng lòng, đầu chân tay bị rơi dưới gầm sàn này thành chín khúc
cũng bằng lòng...
Theo tục cũ, đây chính
là lần đưa chàng trai sang nhà vợ ở rể, thông thường người Thái đen ở rể 1 - 3
năm, thậm chí có gia đình ở rể đến 10 năm. Nếu ở rể, gia đình chàng trai sẽ xin
gia đình nhà gái làm lễ "tẳng cẩu" (búi tóc ngược) cho cô
dâu. Đối với người Thái đen, chỉ sau khi làm lễ tẳng cẩu hai vợ chồng mới được chung chăn chiếu.
Ngày nay, ở một số gia đình, tục ở rể đã được thay bằng tục "tiền công
rể", gia đình chàng trai sẽ nộp một số tiền tương ứng với thời gian ở
rể. Vì vậy, lễ tẳng cẩu thường được làm trong lễ đón dâu.
Sau đám hỏi, một số bản ở
Mường Lò, nhà trai còn sang thăm nhà gái từ một đến hai lần nữa, nếu đi thăm một
lần gọi là "pàn khẩu vay",
còn ở những bản đi thăm hai lần gọi là lễ cắm lá trầu nhỏ (khắt mak pú nợ)
và lễ cắm lá trầu lớn (khắt mak pú luông). Trong lễ này, hai bên gia
đình sẽ so tuổi tác, chọn ngày làm lễ đón dâu và đặc biệt có tục xem chân gà để
đoán lành dữ cho đôi trẻ. Ngày nay, những tục lệ này thường được làm gọn lại
cùng với lễ ăn hỏi.
Lễ đón dâu (sống pạư/tỏn
pạư)
Ngày đón dâu, Mờ cùng chú rể và giai rể (những người bạn
của chú rể đảm nhiệm việc gánh đồ lễ) và những người đại diện cho họ nội sang
nhà gái đón dâu.
Lễ vật nhà trai đem đến
gồm: 1 tạ rượu, 1 tạ thịt lợn, gà 8 con, 12 ống thịt nướng, 9 giỏ cá, 1 giỏ gừng,
vừng, cùng trầu cau và nhiều thứ đồ khác như lọn tóc, trâm cài... tất cả đều được
bao gói (gói bằng giấy xanh, giấy đỏ, buộc lạt màu...) đủ để nhà gái tổ chức
đám cưới. Đại diện nhà gái đứng ra nhận và xem đồ lễ có đủ như lời thách cưới
đưa ra hôm ăn hỏi hay chưa? Nếu vì vô tình mà thiếu đồ lễ thì Mờ với vai trò thông hoạt của mình sẽ kiến
giải lý do. Nếu hợp lý, nhà gái có thể chấp thuận bằng cách phạt uống rượu. Ngược
lại, với trường hợp nhà trai mang đầy đủ lễ vật tới, nhà gái cũng thưởng rượu.
Thủ tục này không chỉ mang ý nghĩa vật chất đơn thuần mà nó còn bày tỏ sự tôn
trọng giao ước, là cơ sở tạo hạnh phúc cho đôi trẻ. Đây chính là lễ nộp sính khòng (tức lễ giao của) của người Thái đen.
Sau khi đồ lễ được trao Mờ và chú rể thưa chuyện với Mờ nhà gái. Họ cất lên những tiếng hát,
những lời đối đáp giới thiệu khiêm tốn về hai gia đình, nhà trai và nhà gái.
Mờ bên nhà trai hát rằng: Chàng
trai từ nhỏ đã được gia đình nuôi nấng cẩn thận. Đến khi tìm hiểu, lại được hai
bên gia đình nhất trí tán thành. Nếu nhà cửa giàu có thì làm lễ to nhưng do
hoàn cảnh gia đình mà chỉ có miếng trầu, cau đem sang bên này...
Nhà gái đáp: Chúng tôi cảm ơn bên ấy đã không
chê con gái chúng tôi dại dột. Có lòng thương đem con chúng tôi sang bên ấy
nuôi nấng...
Sau lễ nộp sính khòng là đến lễ trải chăn đệm (lễ pu phả).
Nghi thức của lễ này thường được hai Mờ và hai người thân đại diện cho hai họ
thực hiện. Người ta trải hai đệm của cô dâu và chú rể cạnh nhau. Đệm của chú rể
do nhà trai trải, đệm của cô dâu do nhà gái trải. Nếu nhìn từ cửa vào thì đệm của
chú rể ở bên trọng, đệm của cô dâu ở bên ngoài. Hai chiếc gối được đặt song
song, áo của cô dâu và chú rể được trải ra nhưng ống tay áo chú rể phải đặt vắt
chéo sang áo của cô dâu, chăn của cô dâu được đắp lên trên. Rồi đến, chăn của
chú rể... Nhiều đồ vật khác sau đó đều được sắp xếp theo thứ tự như vậy...
Trong khi trải chăn đệm, người trải nhất thiết không dẫm lên chăn. Xưa, việc trải
chăn đệm còn phải tiến hành kín đáo, họ lo sợ nếu để người khác nhìn vào sẽ khiến
cho hôn nhân của đôi trẻ không bền.
Những người trải chăn đệm
hoàn tất nghi thức của mình bằng việc chúc phúc cho đôi vợ chồng trẻ con đàn
cháu đống và nhận lễ cảm ơn của gia đình hai họ.
Một nghi thức rất độc
đáo trong đám cưới của người Thái đen được thực hiện tiếp sau đó là lễ "tẳng
cẩu" - búi tóc cho cô dâu. Đây là nét văn hóa dân tộc rất độc đáo của
người Thái đen. Qua búi tóc người ta có thể biết được cô gái này đã có chồng
hay chưa. Khi búi tóc, người Thái luôn có lọn tóc độn. Nó không chỉ có tác dụng
để cho búi tóc được dầy, đẹp, mà nó còn mang ý nghĩa tượng trưng của sự quấn
quít mãi mãi của đôi vợ chồng. Để có được lọn tóc này, một người trong gia đình
nhà trai phải làm nhiệm vụ ngày ngày giữ lại những sợi tóc rụng, gỡ những sợi
tóc rối, gom lại và cất giữ cho tới ngày này.
Trước tiên, bên nhà gái
cử một người ra chải tóc cho cô dâu. Khi tóc được chải đến lưng chừng, nhà gái
sẽ giao số tóc đó cho bên nhà trai chải tiếp. Hành động này có ý nghĩa, từ đây
cô gái đã chính thức là con dâu của gia đình. Cùng với lễ thức búi tóc là tiếng
hát của Mờ:
Mờ bên nhà trai hát rằng: Được
ngày lành tháng tốt, chúng tôi đưa lễ vật sang bên này, chúng tôi xin lấy cái
lược chải để "tẳng cẩu". Xin tất cả cái đẹp, cái lành cho con chúng
tôi. Chúng tôi phải bán con gà, con lợn để mua được cái trâm cài tóc. Tất cả
tài sản dồn lại cho con dâu, mong con dâu sẽ trở thành trụ cột trong gia đình.
Mong sao chúng trở thành đôi vịt không bao giờ xa lìa, như đôi gà luôn quấn
quít bên nhau...
Mờ bên nhà gái dặn cô dâu: Con
ơi! Từ bây giờ con không còn là con gái nữa. Con đã là vợ của người ta rồi. Làm
vợ phải biết nghe lời chồng. Nghe lời chồng là nghe lời bố mẹ chồng. Lời bố, mẹ
chồng là lời hay, lời tốt. Con đừng nghe ái xui, nếu nghe vịt là mất trứng, nếu
nghe gà thì mất con, mất vườn. Có chồng rồi, thấy trai chưa vợ đi qua đừng liếc
nhìn...
Ngày cưới chính là ngày
thiêng liêng nhất trong đời sống tình cảm của con người. Ở thời điểm quan trọng
này, cô dâu chú rể không thể quên công ơn sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Để
bày tỏ lòng hiếu thảo của mình, người Thái có lễ "phan khẩu khén"
- lễ đeo vòng tay cảm ơn bố mẹ cô dâu. Lúc này, Mờ bên nhà trai hát rằng: công lao của bà ngoại là rất lớn.
Lúc đẻ ra, chỗ ướt mẹ nằm, khô ráo để cho con. Thịt nạc nhường cho con cái, để
con cái trưởng thành. Nếu gia đình không nghèo thì sẽ có vòng bạc, vòng vàng
nhưng vì gia đình khó nên chỉ có đôi vòng tay kỉ niệm...
Mờ bên gái tiếp lời: Thời
gian mang thai, vất vả, thèm chua, thèm cá... kể cho đến 9 tháng 10 ngày, chồng
thương chồng thấy đau ngực bên trái, đau ngực bên phải. Chồng đi lấy thuốc nam
về thì mới đẻ được con. Đẻ sấp thì thành con trai, đẻ ngửa ra con gái. Ngày
qua, tháng lại lớn lên mới đưa trâu về buộc trong chuồng, tối đến đi chơi, rồi
chúng gặp nhau, mới tìm hiểu kỹ lưỡng và cuối cùng kết duyên với nhau...
Cứ như thế, hai gia đình
sử dụng hình thức hát ví để tỏ lòng cảm ơn.
Sau lễ "phan khẩu
khén", Mờ bên nhà trai mời ông vãi (bố cô dâu), bà vãi (mẹ cô dâu) sang nhà trai mừng dâu rể.
Đến nhà trai, cô dâu còn
phải làm lễ cúng vía. Xưa trước khi cô dâu vào nhà chồng phải có một chậu nước
làm lễ rửa chân, rửa tay nhưng nay người ta thay bằng cách mời rượu. Mờ đỡ lấy khay rượu, trong khi nhà trai
hát rằng: Cảm ơn các ông bà
đã không quản đường xa đưa con dâu chúng tôi về nhà. Chén rượu này để bóp đầu gối
mỏi, để rửa chân, rửa tay, chúng tôi được bày tỏ tấm lòng...
Tại bàn thờ tổ tiên, thầy
Mo đang làm lễ nhập khẩu cho cô dâu (người Thái gọi lễ này là Lễ nộp phạy). Khấn báo cho tổ
tiên về sự có mặt của thành viên mới. Từ nay trở đi, cô dâu sẽ là người nhà
này.
Sáng hôm sau, người nhà
trai đưa cô dâu, chú rể 2 cân thịt, 2 gói xôi, 2 chai rượu sang nhà gái và mời
đại diện nhà gái trong đó có mẹ cô dâu và bà Mờ sang nhà trai dự bữa cơm ngái hua (tức bữa cơm nhận lễ).
Khi đoàn nhà gái đến, họ
phân chia các tặng phẩm cho họ đằng trai. Lễ này được gọi là Phăn chương khá (lễ chia của). Người được tặng phẩm đều
phải uống 1 chén rượu tỏ lòng cảm ơn.
Mờ bên nhà gái thưa rằng: Tất
cả, mọi thứ để lo liệu cho con gái chúng tôi sang, đáng lẽ chúng tôi có của, có
cải cho con chúng tôi sang bên này làm nhà, làm cửa giúp ông giúp bà. Nhưng nay
không giúp được nên chúng tôi có chút tặng phẩm biếu họ nội bên này...
Mờ bên nhà trai đáp lại: Bên
ấy, có lòng tốt đem chăn đệm ấm, gối dày sang bên này, chúng tôi rất cảm ơn...
Mờ cũng là người mà nhà trai ủy thác việc theo dõi sức khỏe của cô dâu lúc
tổ chức đón dâu. Nếu lúc này, cô dâu đang có mang thì đám cưới phải rước dâu
theo đường cầu thang phụ và không được lạy ma nhà. Theo quan niệm của đồng bào,
nếu điều này không được tuân thủ triệt để thì một số thành viên trong gia đình
nhà chồng có thể sẽ bị chết. Đồng bào tin rằng vai trò của Mờ lúc này không chỉ là điều khiển, tiến
hành các nghi lễ mà còn đảm tiến trình hôn nhân không xâm phạm tới các thế lực
siêu nhiên.
Lễ lại mặt (tao tin)
Sau ba ngày kể từ ngày
đón dâu, chú rể, cô dâu cùng đại diện họ nhà trai phải sang nhà gái lại mặt.
Theo phong tục, nhà gái sẽ ăn mừng đám cưới trong ba ngày nên cô dâu không được
về. Nếu về sớm, tổ tiên sẽ giận. Khi lại mặt, chú rể mới và cô dâu trẻ có thể
đem theo chút quà như: thịt trâu nướng, cơm nếp, rượu...
Trong lễ cưới của người
Thái đen, hai Mờ - là người thay mặt hai họ đối đáp với
nhau bằng tiếng hát. Những bài hát họ sử dụng không có sẵn mà tùy vào hoàn cảnh
và nhân thân của hai bên gia đình mà ứng khẩu thành ý nghĩa. Chẳng hạn nếu như
cha hoặc mẹ của cô dâu hay chú rể không may đã khuất, Mờ cũng sẽ có những lời hát nhắc tới sự
kiện này để ghi nhận công lao của họ đối với con cái hoặc bổ khuyết cho những
thiếu sót trong khi tổ chức các nghi lễ nếu có. Những lời hát ví là những lời
giáo dục đạo lý làm người, phận làm con, niềm hạnh phúc được làm vợ, làm mẹ
v.v... Sự nhanh nhẹn, thông minh và tài đối đáp của Mờ phần nào cho thấy những nét văn hóa đặc
sắc trong đời sống tinh thần của người Thái đen.
Là đầu mối thông tin của
hai bên gia đình, Mờ nhiệt thành vun đắp cho hạnh
phúc của đôi trẻ. Tuy nhiên, đồng bào quan niệm rằng đây không phải là một nghề
mà người ta làm Mờ để tích đức, dành phúc lộc cho
con, do vậy không có việc trả công cho Mờ,
ngoại trừ việc biếu bà ta một chiếc váy đẹp do chính tay cô dâu dệt để tỏ lòng
biết ơn. Đối với Mờ, người
ta quan tâm đến việc trả nghĩa.
Thật vậy, sau mỗi cuộc hôn nhân, Mờ và gia đình cô dâu chú rể có quan hệ
thân thuộc như người nhà, việc đi lại thăm hỏi diễn ra thường xuyên, đặc biệt
là trong thời gian ở rể. Thậm chí, khi có những khúc mắc trong cuộc sống gia
đình, người đầu tiên được nhớ đến là Mờ.
Chính Mờ bằng uy tín và tình cảm của
mình sẽ là đầu mối trung hòa các mâu thuẫn, chỉ bảo cách cư xử, sinh hoạt cho cặp
vợ chồng mới. Mỗi năm khi tết đến xuân về, hoặc khi gia đình nhà Mờ có giỗ chạp, cưới xin, ma chay... đôi
vợ chồng trẻ (trong thời gian ở rể) phải có nghĩa vụ đến thăm hỏi, giúp đỡ, biếu
xén, giữ đạp làm con. Trong trường hợp chàng trai còn đang ở rể, chưa đón dâu về
(nghi lễ hôn nhân chưa hoàn tất) mà Mờchẳng
may qua đời, đôi vợ chồng trẻ phải để tang 3 tháng, nếu đã đón dâu về nhà chồng
phải để tang 1 năm và có nghĩa vụ đóng góp về kinh tế cũng như công sức để tiễn
đưa người đã tác thành cho mình về cõi vĩnh hằng(1).
Thông qua việc coi trọng vai trò của Mờ ngay trong đời sống thường ngày chứ
không chỉ trong nghi lễ đã cho thấy tầm quan trọng của Mờ trong văn hóa Thái. Đây là một nét
phong tục đẹp, có sức sống bền bỉ, nó hướng con người đến các giá trị Chân, Thiện,
Mỹ.
Trong quá trình điền dã thu thập, ghi âm, chuyển nghĩa các
bài hát trong nghi lễ hôn nhân của người Thái, chúng tôi nhận được sự trợ
giúp rất nhiệt thành của bà Hoàng Thị Hạnh - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái,
ông Hà Lâm Kỳ, cán bộ Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Yên Bái và bà Điêu Thị Xeng -
Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Nghĩa An, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Những tư liệu
này đã giúp chúng tôi rất nhiều trong việc hoàn thành bài viết. Tuy còn một số
hạn chế nhưng hi vọng sẽ được khắc phục trong những nghiên cứu tiếp sau.
H.T.H - N.T.T.T
(Theo: Thông
báo văn hoá dân gian 2005, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nông Quốc Chấn (chủ biên), Văn hóa và sự phát triển của các
dân tộc ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1996.
2. Đặng Văn Lung, Nguyễn Sông Thao, Hoàng Văn Trụ (chọn), Phong tục tập quán các dân tộc Việt
Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1997.
3. Cầm Trọng, Văn
hóa Thái ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1995.
4. Truyền
thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Nghĩa Lợi, Yên Bái, 1991.
5. Lê Trung Vũ, Nghi
lễ vòng đời, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2000.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét