Một Số Loại Hình Ruộng Đất, Ruộng, Nương Của dân tộc Thái Trước 1945 (TS. Phạm Văn Lực)

Tây Bắc là cách gọi theo phương vị lấy Thủ đô Hà Nội làm chuẩn. Cho đến nay mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau về địa giới của Khu Tây Bắc, nhưng theo chúng tôi Tây Bắc chủ yếu bao gồm các tỉnh: Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái và một phần của Hòa Bình.

Tây Bắc là địa bàn sinh sống lâu đời của 23 dân tộc anh em: Thái, H’mông, Lự, Hoa, Kinh, Mường, Dao, Tày, Nùng, Lào, Laha, Khơ Mú, Kháng, Mảng, Xinh mun, La hủ, Hà nhì…, trong đó đông nhất là dân tộc Thái chiếm khoảng 53 % dân số trong Vùng.


Người Thái Tây Bắc đã sống định cư từ rất sớm trong lịch sử (thế XIII) và có trình độ phát triển kinh tế xã hội khá cao so với các dân tộc trong Vùng, nhất là sản xuất nông nghiệp với trình độ canh tác ruộng nước và kỹ thuật làm mương, phai, lái, lín “dẫn thủy nhập điền” hết sức độc đáo. Đồng thời với việc ổn định địa bàn cư trú, bản mường xuất hiện là chế độ ruộng đất cũng từng bước được hình thành, đa dạng, phong phú cả về hình thức sở hữu cũng như tên gọi từng loại ruộng, nương. Trong phạm vi của bài viết, tôi xin đề cập đến vấn đề này cụ thể như sau:

1. Vài nét khái quát về địa bàn cư trú, đặc điểm kinh tế xã hội của người Thái Tây Bắc

1.1. Điều kiện tự nhiên
Tây Bắc có địa hình phức tạp, bị cắt xẻ bởi những dãy núi đá vôi nằm trong dãy Hoàng Liên Sơn chạy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, dài khoảng 180 km, rộng 30 km và vòng cung Sông Mã chạy từ Đông sang Tây cao trung bình từ 700m - 800m, cũng có đỉnh cao trên dưới 2500m, điển hình như Pú Luông cao 2800m so với mặt biển; Pan xi phăng cao 3.114m so với mực nước biển... Toàn khu có hai cao nguyên lớn: cao nguyên Mộc Châu hay còn gọi là Thảo nguyên Mộc Châu bằng phẳng dài 70km rộng 50km, cao 1050 m so với mặt nước biển, rất thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi và trồng cây công nghiệp. Cao nguyên Sìn Hồ chạy dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam dài trên 200km, rộng khoảng 30-50 km, độ cao trung bình từ 700-800 m so với mặt biển. Ngoài ra, Tây Bắc còn có một số cao nguyên vừa và nhỏ khác như: Cao nguyên Nà Sản chạy dài theo quốc lộ 6 dài khoảng 100 km, rộng 60 km, cao trung bình khoảng 600 m so với mặt biển...


Do sự kiến tạo của địa chất, sự đan xen giữa những dãy núi đá vôi hiểm trở với các dãy núi đất và các sông, suối lớn nhỏ đã tạo nên các thung lũng, phiêng bãi đất đai màu mỡ phì nhiêu, thuận lợi cho việc trồng rau màu và lúa nước; tiêu biểu nhất là 4 cánh đồng, đúng như câu ca của đồng bào Thái đã nói: “Nhất Thanh (Điện Biên-Lai Châu), Nhì Lò (Mường Lò-Nghĩa Lộ), Tam Tấc (Phù Yên-Sơn La), Tứ Than (Than Uyên-Nghĩa Lộ)”. Cùng với những lợi thế trên, trong lòng đất của Tây Bắc còn tiềm ẩn nhiều khoáng sản quí như: sắt, than, vàng, bạc...

Về khí hậu, sông ngòi. Tây Bắc có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nắng nóng mưa nhiều, mùa khô từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, nhiệt độ trung bình từ 230C - 250C, lượng mưa từ 1400 đến 1800 mm/năm. Mùa đông trùng với mùa khô lạnh, ít mưa, khô hanh từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau. Thế nhưng, do ảnh hưởng của độ cao địa lý và địa hình nên khí hậu Tây Bắc cũng có sự phân chia thành những khu vực khác nhau:

- Tiểu vùng khí hậu phía Bắc, bao gồm các huyện: Mường Tè, Sìn Hồ, Phong Thổ (Lai Châu), Sa Pa, Bắc Hà (Lào Cai); đặc điểm nổi bật của vùng này là ít bị ảnh hưởng của bão, nhưng lại chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa đông bắc, vào mùa đông thường xuyên có băng giá sương muối, nhất là vùng Bắc Hà, Sa Pa; mùa hè mát mẻ, đan xen có gió Tây khô nóng.

- Tiểu vùng khí hậu dọc sông Đà, bao gồm các huyện: Mường Lay (Điện Biên), Quỳnh Nhai, Mường La, Mai Sơn, Phù Yên, Bắc Yên (Sơn La), đây là vùng mưa nhiều, lượng mưa trung bình trong năm là trên 2000mm, mùa đông ấm, ít bị ảnh hưởng của sương muối.

- Tiểu vùng khí hậu phía Tây và Tây Nam: bao gồm các huyện Thuận Châu, Mai Sơn, Sông Mã, Yên Châu (Sơn La), huyện Điện Biên (Điện Biên). Đây là vùng bị ảnh hưởng trực tiếp của gió Tây khô nóng, ít mưa hơn các vùng khác, lượng mưa trung bình trong năm là 1400mm, có nơi mưa 1200mm, mùa đông thường hay bị ảnh hưởng của sương muối, nhất là vùng cao nguyên Sơn La.

- Tiểu vùng khí hậu phía Đông và đông Nam: bao gồm hầu hết các huyện dọc sông Hồng của Yên Bái, Mộc Châu và phần còn lại của huyện Bắc Yên. Đây là vùng chịu ảnh hưởng của bão và gió mùa đông bắc, ảnh hưởng của gió Tây nhưng không nhiều. Địa hình thấp, mùa đông lạnh, thường hay có sương muối.

Trên địa bàn Tây Bắc còn có nhiều nguồn nước sông suối. Sông Mã bắt nguồn từ miền Nam Trung Quốc chảy vào Sơn La qua địa phận huyện Sông Mã rồi vòng qua Lào vào Thanh Hoá ra biển. Từ rất sớm trong lịch sử cư dân Việt và Lào đã nhờ con sông này mà giao lưu trao đổi cả về kinh tế, văn hoá. Sách Đại Việt sử kí Toàn thư có nói đến các lái buôn người Việt theo đường sông Mã mang muối, vải... theo đường sông Mã lên trao đổi với buôn bán với người Lào Lum, khi về họ mang theo nhiều hương liệu, ngà voi, sừng tê... Sông Đà bắt nguồn từ vùng Nam Mông Hoá, gần làng Sin Cai thuộc tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) chảy vào nước ta ở Mường Lái qua Lai Châu vào Sơn La hợp với suối Nậm Na ở phía Bắc và Nậm Mức ở phía Nam theo hướng Tây Nam chảy qua địa phận các huyện: Mường Tè (Lai Châu), Mường Lay (Điện Biên), Thuận Châu, Quỳnh Nhai, Mường La, Mai Sơn, Mộc Châu (Sơn La), qua tỉnh Hoà Bình hội nhập với sông Hồng. Trong lịch sử cũng như hiện nay sông Đà không chỉ là nguồn cung cấp nước cho đời sống, sản xuất mà còn là tuyến huyết mạch đảm bảo cho sự giao lưu trao đổi đặc biệt quan trọng của nhân dân trong vùng và giữa Tây Bắc với các địa phương miền xuôi. Ngoài hai con sông chính, sông Mã, sông Đà, Tây Bắc còn có hàng nghìn con suối lớn, nhỏ chảy luồn lách quanh những gò đồi tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng lúa nước, rau màu, cây ăn quả và phát triển chăn nuôi.

Những lợi thế về vị trí địa lí, cùng sự đa dạng, phong phú của điều kiện tự nhiên không chỉ khiến cho Tây Bắc có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng cả về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng ở khu vực Tây Bắc và trong phạm vi cả nước mà còn thuận lợi cho con người sinh sống. Vì thế, từ rất sớm trong lịch sử vùng đất Tây Bắc đã thu hút được cư dân trong vùng vàcư dân từ nơi khác đến làm ăn sinh sống trên mảnh đất này, tạo nên một thiết chế xã hội độc đáo đậm đà sắc thái bản địa.

1.2. Về địa bàn cư trú
Trước khi người Thái thiên di vào Tây Bắc, nhóm cư dân Nam Á (bao gồm nhiều tộc người khác nhau như: Xinh Mun, La Ha, Kháng, Mảng...) đã sinh sống lâu đời trên mảnh đất này. Họ làm ruộng ở các thung lũng và phiêng đất ven sông, suối và có trình độ phát triển kinh tế xã hội khá cao: “Thuở ấy, cư dân Tây Bắc vẫn là một bộ phận của nền văn minh đồng thau Đông Sơn với sản phẩm nổi tiếng là trống đồng và công cụ bằng đồng, những thứ mà ngày nay đã trở thành vật thiêng, chỉ dùng trong các nghi lễ thờ cúng tổ tiên. Trong số cư dân ấy, người Kháng có tục uống nước bằng mũi (Tà mui). Nước măng chua, hoà tỏi, rau thơm, gạn lấy nước đổ vào vỏ quả bầu mận, cho chảy vào mũi, trong khi ấy miệng thì nhai cá hay thịt. Cách uống này hiện nay vẫn còn tồn tại trong người Kháng ở ven sông Đà phía bên Tà Hộc, (Mai Sơn-Sơn La) Mường Sại, Chiềng Muôn, Chiềng Bằng, Liệp Muội(Thuận Châu-Sơn La), các vùng dọc sông Đà của Mường Lay, Mường Nhé (Điện Biên), Mường Tè (Lai Châu)… Đặc biệt, người Kháng rất giỏi làm thuyền độc mộc, đánh cá ở các sông, suối. Người Thái cũng phải thừa nhận “thuyền tốt không gì bằng thuyền Kháng” [6, tr. 218].

Riêng đối với người La Ha cho đến ngày nay vẫn được người Thái tôn sùng vì được coi là chủ nhân của trống đồng. Cả người La Ha và người Thái đều coi trống đồng là một vật thiêng “có thần trú ngụ ở trong đó” (người Kinh cũng gọi trống đồng là “Đồng cổ thần”). Người La Ha còn nổi tiếng với những lễ hội tưng bừng như: mừng mùa măng mọc, mừng cơm mới, mừng nhà mới… Trong các lễ hội, người La Ha hay nhảy múa với điệu múa thực khí sinh động, rộn ràng trong tiếng đệm của đàn ống tre rỗng, dỗ trên tấm ván với những cô gái nhún nhảy múa [6, tr.219].

Người Mảng, hiện nay vẫn còn giữ được tục săm những chấm, hoặc vòng tròn có chấm ở giữa, quanh miệng và cằm. Vì thế người Thái gọi họ là “Xá cằm hoa” (Xá cang lái), tức Xá cằm xăm hoa. Người Mảng cũng là dân tộc có nhiều kinh nghiệm trong việc làm nương dẫy ở các sườn núi có độ dốc cao.  Cuộc sống của họ chủ yếu là dựa vào kinh tế nương rẫy, săn bắt, hái lượm và đánh cá ở ven các sông, suối… Về mặt sinh hoạt văn hoá tinh thần, người Mảng cũng giống như người La Ha đều biết nhảy múa  trên nền nhạc cụ tre nứa dỗ trên mặt sàn tấm ván…


Trong thời gian từ thế kỷ IX đến XIII,người Thái ở cao nguyên Thanh Tạng (Tây Tạng-Trung Quốc) vì nhiều lý do khác nhau đã tìm đường thiên di xuống phía Nam vào vùng Tây Bắc (từ đầu công nguyên ở Tây Bắc đã có một số tụ điểm của cư dân Thái nhưng còn rất thưa thớt). Sự có mặt của người Thái ở Tây Bắc đã tạo ra những cuộc tranh chấp quyết liệt và kéo dài về địa bàn cư trú giữa các nhóm người Thái mới thiên di đến với cư dân bản địa Nam Á. Cuối cùng “Lạng Chượng – một thủ lĩnh Thái tài giỏi nhưng cũng phải chật vật lắm mới đánh thắng nổi quân Nam Á. Truyền thuyết còn kể rằng quân Xá (tức Nam Á) có tên làm bằng đồng sắc nhọn, quân Thái chỉ có tên tre, Lạng Chượng mới nghĩ cách lập mưu thách nhau bắn xem tên của ai cắm vào đá là thắng. Quân Xá bắn tên đồng vào đá thì bật ra. Quân Thái biết cách nạp cục xáp ong vào đầu tên tre nên bắn vào đá thì dính. Quân Xá thua phải chịu dâng trống đồng, để quân Thái chiếm đất, còn quân Xá phải chạy lên núi cao và vào vùng sâu mà ở” [6, tr.218]. Hiện nay trong lễ hội truyền thống “Xênra” của người Thái Thuận Châu có cả một mục diễn lại cảnh người Xá dâng trống đồng cho người Thái (gọi là Xá Cú Coong). Sự thắng thế của người Thái đã dồn đẩy cư dân Nam Á phải chạy lên các vùng núi cao hiểm trở sinh sống, còn người Thái thì chọn những vùng thấp, đất đai bằng phẳng, màu mỡ phì nhiêu, gần nguồn nước, giao thông đi lại thuận tiện để định cư.

Sự ổn định địa bàn cư trú cùng với việc thống nhất ba trung tâm Thái ở Tây Bắc của Tạ Ngần - thủ lĩnh Thái ở Mường Muổi (Thuận Châu)thế kỷ XIII đã tạo ra bước phát triển quan trọng trong lịch sử xã hội Thái ở Tây Bắc: “Nó không chỉ xóa đi sự phân tán cát cứ của các chúa Thái mà từ đây bản mường xuất hiện, chế độ ruộng đất được xác lập, một thiết chế xã hội Thái độc đáo được hình thành trên cơ sở kinh tế nông nghiệp với hai loại hình canh tác chính: làm ruộng nước và nương rẫy” [15, tr.33].

  1.3. Đặc điểm kinh tế xã hội
       Trước 1945, đặc trưng kinh tế của cư dân Thái Tây Bắc là kinh tế nông nghiệp với hai ngành sản xuất chính: trồng trọt và chăn nuôi. Thế nhưng, do tác động của yếu tố địa hình, đất đai, sông ngòi, khí hậu… nên sản xuất nông nghiệp của đồng bào Thái cũng có sự phân chia thành những khu vực và ngành nghề khác nhau khá rõ rệt.

- Vùng thấp, bao gồm các khu vực: cánh đồng Mường Thanh (Điện Biên), Mường Lò (Nghĩa Lộ), Mường Tấc (Phù Yên), Mường Than (Than Uyên) và các phiêng đất dọc theo sông Đà, sông Mã... Đây là vùng kinh tế trọng điểm của cư dân Thái và cũng là của cả vùng Tây Bắc, ởđây nhìn chung dân cư đông đúc, đất đai bằng phẳng, màu mỡ, nhiều ruộng nước… cho nên thế mạnh của vùng này là canh tác ruộng nước, cây trồng chính là lúa ruộng. Ngoài ra, ở hầu hết các chân ruộng cư dân Thái còn trồng các loại cây hoa màu như: rau, quả, bầu, bí, đậu, đỗ; cây nông sản lấy mật, lấy sợi như: bông, gai, mía. Khu vực này còn có nhiều thế mạnh trong việc phát triển chăn nuôi gia súc như: trâu, bò, ngựa, lợn; gia cầm như: gà, vịt, ngan, ngỗngvà nuôi, thả cá trong các ao, ruộng…

Tuy diện tích ruộng nước nhỏ, hẹp nhưng do cư dân Thái sớm biết làm mương, phai, đúc kết kinh nghiệm canh tác, sử dụng phân bón trong sản xuất và thực hiện luân canh nên năng suất cao hơn so với làm nương dẫy ở các sườn đồi, núi.

- Vùng cao, chiếm phần lớn diện tích đất đai trong vùng. Ở khu vực này, chủ yếu là núi đá, có xen kẽ với núi đất, khí hậu mát mẻ, thế mạnh của vùng cao là sản xuất nương dẫy và phát triển chăn nuôi. Có thể nói, từ rất sớm trong lịch sử để duy trì cuộc sống, cư dân Thái ở Tây Bắc đã biết lợi dụng nương dẫy để tra lúa (lúa nương), trồng ngô, khoai, sắn và các loại cây hoa màu như: rau, quả, đậu, đỗ; cây nông sản như: bông, gai và một số loại cây ăn quả khác. Trong điều kiện thiên nhiên ưu đãi, diện tích rộng nên sản phẩm thu được từ sản xuất nương dẫy đóng vai trò quan trọng trong đời sống, kinh tế của người Thái. Cùng với sản xuất nương dẫy, ở vùng cao còn có thế mạnh về phát triển chăn nuôi gia súc như: trâu, bò, lợn, gia cầm như: vịt, gà, ngan, ngỗng… Tuy cách thức chăn thả còn rất lạc hậu, chủ yếu theo kiểu thả rông, sản phẩm thu được ít nhưng chăn nuôi cũng có vị trí quan trọng trong việc duy trì cuộc sống của  dân trong vùng.

Ngoài hai ngành sản xuất chính trồng trọt và chăn nuôi, cuộc sống của cư dân Thái còn dựa vào khai thác lâm sản, săn bắn, hái lượm trong rừng, đánh bắt cá ở ven các sông, suối. Đúng như câu ca của người Thái:                                       
"Cơm nước ở mặt đất
Thức ăn ở trong rừng".

Thế nhưng, ngay trong từng khu vực cụ thể, do tác động của điều kiện tự nhiên, sự phong phú của cây trồng, vật nuôivà kinh nghiệm sản xuất lâu đời của cư dân, nên người Thái  Tây Bắc cũng được biết đến vớibiệt tài về kỹ thuật canh tác ruộng nước (ruộng bậc thang) thông qua hệ thống mương, phai, lai, lín để: “dẫn thuỷ nhập điền”. Nhờ vậy mà họ đã chủ động được tưới, tiêu, làm cho sản xuất nông nghiệp ở loại hình ruộng nước và nuôi thả cá trong các ao, ruộng mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ngoài ra, dân tộc Thái cũng có nhiều kinh nghiệm trong việc làm nương dẫy, khai thác lâm sản, săn bắn, hái lượm trong rừng và chăn thả gia súc…. Điều này đã được khẳng định trong câu ngạn ngữ Thái:

"Xá ăn theo lửa
Thái ăn theo nước
H’Mông ăn theo sương mù"

Thủ công nghiệp - thương nghiệp ở Tây Bắc nói chung, trong cộng đồng Thái nói riêng hầu như chưa phát triển, sản xuất thủ công nghiệp và thương nghiệp chưa tách khỏi nông nghiệp để trở thành một ngành kinh tế độc lập. Ở một số địa phương cư dân Thái cũng đã manh nha những ngành nghề thủ công truyền thống, điển hình như: làm gốm ở Mường Chanh (Mai Sơn-Sơn La), Mường Sại (Thuận Châu-Sơn La), Mường Lò (Nghĩa Lộ), Mường Lay (Điện Biên); còn các nghề dệt thổ cẩm, đan lát mây, tre và nghề mộc đã trở thành phổ biến trong dân gian… Nhưng, sản phẩm hàng hoá ít, quy mô sản xuất nhỏ hẹp trong từng gia đình, đến khi thực dân Pháp xâm lược (1888) và suốt cả thời kỳ thuộc Pháp về sau, hoạt động giao lưu trao đổi hàng hoá trong xã hội Thái và cả vùng Tây Bắc chưa phải là hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá- tiền tệ mà vẫn chủ yếu theo phương thức trao đổi truyền thống “vật đổi vật”. Đặc điểm này đã kìm hãm xã hội Thái và cả vùng Tây Bắc trong tình trạng nghèo nàn lạc hậu, thậm chí đến năm 1945 vẫn chưa vượt qua “thời kỳ đầu của hình thái kinh tế xã hội phong kiến” [9, tr.11]

2.Một số loại hình ruộng đất và cách phần loại ruộng, nương của người Thái Tây Bắc
2.1. Một sốloại hình ruộng đất trong xã hội Thái truyền thống

Trong xã hội Thái truyền thống có những loại hình ruộng đất sau:
- Ruộng “Khẩu phần” hay còn gọi là ruộng “Gánh vác” (Na háp mé). Đây là loại ruộng công của bản, mường chia cho mỗi hộ nông dân theo quy định truyền thống, giống như ruộng công làng xã ở xuôi. Cũng có bản chia theo đầu hộ trong bản, cũng có nơi chia theo suất đinh (con trai), cũng có nơi lại chia theo nhân khẩu (tổng số người trong hộ), diện tích rộng hay hẹp tùy theo quỹ đất của bản. Cày cấy loại ruộng này người nông dân (hay còn gọi là cuông, nhốc hay pụa pai) phải nộp tô, thuế, đi phu, đi lính và phục dịch không công cho chẩu mường và tạo bản từ 1 đến 3 tháng. Quam tô mương của Mường Muổi (Thuận Châu - Sơn La) ghi: “Ngoài tô, thuế phải nộp bằng 1/3 hoa lợi làm ra, một năm người dân còn phải thay nhau đến phục dịch cho chẩu mường và tạo bản 3 tháng…”Hoặc, Quam tô mương của Mường La (Sơn La) cũng viết: “khi nhận ruộng khẩu phần, dân bản phải làm đầy đủ các nghĩa vụ như nộp tô, thuế, đi phu, đi lính và phục dịch cho chẩu mường, ai không làm đủ thì chịu phạt và có khi bị thu lại ruộng” [14].

Ngay ở vùng Mường Thanh (Điện Biên) – nơi có nhiều ruộng đất nhất vùng Tây Bắc nhưng các chúa Thái cũng đã chiếm hết các khu ruộng tốt chỉ còn những chỗ xấu để chia cho dân bản và khi nhận suất ruộng khẩu phần này người dân cũng phải đóng đầy đủ các loại tô thuế, phục dịch. Quam tô mương của Mường Thanh (Điện biên), Mường Quày (Tuần Giáo) ghi: “Mỗi hộ gia đình khi nhận suất ruộng khẩu phần phải gánh vác đầy đủ các nghĩa vụ đối với chúa Thái rất nặng nề. Các khoản tô, thuế ít nhất là 1/3 hoa lợi thu được (kể những năm mất mùa); phục dịch thì tùy theo cộng việc của nhà quan tạo...” [14]

Riêng về thuế, người nông dân Thái trước đây phải đóng rất nhiều loại thuế, Quam tô mương của Mường La, Mường Sang (Sơn La), Mường Lò, Mường Tấc (Nghĩa Lộ) đều ghi:

"Thuế có đủ các loại như: thuế ruộng (Quý hay ná), thuế thổ trạch (Quí hua hướn), thuế đinh (Quí đôi), mà loại thuế nào cũng rất nặng..." [14].

Có thể nói, trong xã hội Thái truyền thống, ruộng khẩu phần là đối tượng bóc lột chủ yếu của tầng lớp quí tộc và nó cũng chính là kho người, kho của thiết chế xã hội Thái ở Tây Bắc trước Cách mạng tháng Tám 1945. Sự ổn định của loại hình ruộng đất này có liên quan trực tiếp đến nguồn thu và sự cường thịnh trị của các dòng họ thống trị Thái ở Tây Bắc.

- Ruộng chức.Đây là loại ruộng được cấp cho tất cả các thủ lĩnh, quan tạo, mo mường và chẩu mường Thái theo tập tục truyền thống của hàm phẩm và chức tước. Về diện tích rộng hay hẹp tùy theo chức tước, hàm phẩm của người được cấp và người đó có toàn quyền sử dụng, ban tặng, mua bán và được cha truyền con nối theo dòng họ thống trị. Ví dụ như: họ Cầm ở Mường Chanh (Mai Sơn- Sơn La) tạo bản được cấp bằng 10 suất ruộng khẩu phần, mo mường được cấp 8 bằng 8 suất ruộng khẩu phần, chẩu mường Thái được cấp bằng 20 suất ruộng khẩu phần [14].

Dòng họ Bạc (Bạc Cầm Châu, Bạc Cầm Quý...) cha truyền con nối 17 đời nắm quyền thống trị ở Thuận Châu (Sơn La) và cũng có lượng ruộng đất rộng bát ngát “gấp 1,5 lần các tạo bản, chẩu mường và mo mường của Mường Chanh (Mai Sơn – Sơn La), nhưng chỉ bằng ½ các quan tạo và chẩu mường của vùng Mường Thanh (Điện Biên)...” [14].

Hoặc họ Điêu ở Quỳnh Nhai (Sơn La), họ Đèo ở Mường Lay (Lai Châu), họ Sa ở vùng Mường Sang (Mộc Châu), Họ Hoàng ở Yên Châu... tầng lớp quí tộc Thái đều nắm trong tay số phần lớn ruộng đất của bản...Quan tô mương của Nà Bó (xã Mường Sang – Mộc Châu) viết: “ đầu mường, cuuoois bản chỗ nào cũng là ruộng đất của nhà tạo” [14].

Điều đặc biệt của loại ruộng này là ở chỗ các gia đình tạo bản hay chẩu mường không những không phải nộp tô, thuế cho ai mà ngược lại còn được các hộ nông dân trong bản phải thay nhau đến làm không công cho chủ ruộng. Quam tô mương của Mường Lay (Lai Châu) viết: “Chỗ nào ruộng tốt nhất đều là của tạo Mường Lay, chỗ nào lúa tốt nhất là của tạo Mường Lay, chỗ nào đông người làm nhất cũng là của tạo Mường Lay” [14]. Tình cảnh này cũng được phản ánh trong Quam tô mương của Mường La (Sơn La) như sau: “Làm cho chẩu mường thì áo rách, làm cho nhà tạo thì không mảnh cót che lưng...” [14].

Tuy ở Tây Bắc cư dân thưa thớt, ngoài ruộng còn có nương dẫy và rừng núi rộng lớn nhưng nguồn sống chủ yếu của người nông dân Thái vẫn là canh tác ruộng nước. Thế nhưng, cũng giống như dưới xuôi, các chúa Thái vẫn lợi dụng những năm mất mùa, hoặc hoạn nạn để mua rẻ ruộng đất của noongt dân; vì thế, ruộng công trong các bản ngày càng bị thu hẹp lại, còn ruộng chức của quí tộc ngày càng được mở rộng. Hiện tượng này đã làm cho không ít nông dân trong bản, mường bị đẩy vào con đường cùng không lối thoát hoặc là phải bỏ bản vào sống lang thang trong rừng nay đây, mai đó; hoặc là trở thành “cuông”, “nhốc” cho quan tạo hoặc chẩu mường. Đúng như Quan tô mương của Mường Muổi viết: “Tránh hổ thì lại gặp lang sói” [14]

- Nương dẫy. Về danh nghĩa nương dẫy cũng là chung của cộng đồng, tuy nhiên các quan tạo hoặc chẩu mường đã dùng uy quyền của mình chiếm hữu hầu hết các mảnh nương tốt, chỉ còn lại một phần nhỏ dành cho các hộ gia đình trong bản. Khi trồng trọt trên phần nương dẫy này người nông dân cũng phải mùa nào thứ ấy nộp hoa lợi cho quan tạo và chẩu mường theo quy định. Trong luật tục Thái ở Mường Quày (Tuần Giáo-Điện Biên) quy định cho một vạt nương (khoảng 3 sào): “dưa nộp 1 sọt, khoai sọ 1 rổ, thóc nếp 1 thùng, vừng, đỗ, lạc 1 đấu...” [14]. Hoặc vùng Mường Lò (Nghĩa Lộ) cũng quy định trong luật tục Thái như sau: “...thóc nếp 1 thùng, vừng, đỗ, lạc 1 đấu...” [14].

- Rừng núi. Rừng núi là tài sản chung của bản, mường và mọi thành viên đều có quyền khai thác lâm sản, săn bắn, hái lượm… Tuy nhiên, theo tập tục lâu đời các tạo bản, chẩu mường Thái dùng uy quyền của mình bắt mọi thành viên trong bản khi vào rừng kiếm ăn đều phải có “nghĩa vụ” cống nạp theo “Luật tục”. Theo luật tục Thái ở Mường Muổi (Thuận Châu – Sơn La) có Ghi: “Bắn được gấu phải nộp cho tạo bản mật và hai tay trên, săn được hươu phải nộp sừng, bắn được hổ phải nộp da và xương…” [14].

Riêng đối với các khu rừng đầu nguồn các con sông, suối người dân có thể vào khai thác mật ong, phấn hoa, săn bắn chim, thú nhưng tuyệt đối không được chặt cây hoặc làm ảnh hưởng đến rừng để giữ nguồn nước cho cả bản trong sinh hoạt cũng như sản xuất. Luật tục Thái vùng Mường É (Thuận Châu) quy định; “người dân bản nào phải có trách nhiệm giữ gìn rừng đầu nguồn của bản mình “Ai không tuân thủ phải chịu phạt theo quy định; hoặc nặng quá phải dời nhà đi nơi khác ở...” [14]. Đặc biệt đối các khu rừng ma (nơi hỏa táng hoặc chôn cất người chết của người Thái) của bản thì tuyệt nhiên không ai dám động vào hoặc khai thác bất luận dưới hình thức nào; vì theo tập tục tâm linh truyền thống của đồng bào Thái Tây Bắc.

Nhìn chung, trong xã hội Thái truyền thống có hai loại hình ruộng đất: ruộng công và ruộng tư; vị trí, vai trò của mỗi loại ruộng này là rất khác nhau; ruộng công “ruộng khẩu phần” (hay có nơi gọi là “ruộng gánh vác”) chính là kho người, kho của của các chúa Thái, sự ổn định hay biến động của loại hình ruộng đất này liên quan trực tiếp đến sự thanh bình hay loạn lạc của xã hội Thái.

2.2. Cơ sở phân loại và cách gọi tên ruộng, nương của người Thái Tây Bắc
Trên cơ sở những đặc điểm về tự nhiên, địa vực cư trú, tập quán và kỹ thuật sản xuất…quy định đặc trưng kinh tế trồng trọt là chủ yếu và nó quyết định sự tồn tại xã hội của người Thái. Họ trồng nhiều loại cây nhưng chủ yếu là lúa. Nền nông nghiệp mang nặng tính độc canh. Đối tượng trồng trọt chủ yếu của đồng bào là ruộng và nương, người Thái Tây Bắc gọi ruộng đất là ông nương, bà ruộng” (po hay, mẹ na).

Ruộng nước
Ruộng nước được người Thái gọi là “na”. “Na” của họ là khoảng đất có mặt bằng, xung quanh có bờ ngăn giữ nước, để trồng lúa. Khâu trồng lúa được nhấn mạnh để phân biệt giữa ruộng với ao, hồ.

Từ lâu, ruộng nước đã trở thành đối tượng lao động chủ yếu của cư dân Thái. Theo các tài liệu dã sử của địa phương: Quam tô mương của Mường La (Sơn La), Mường Muổi (Thuận Châu-Sơn La), Mường Quày (Tuần Giáo- Điện Biên), Mường Lò (Nghĩa Lộ), Mường Sang (Mộc Châu- Sơn La)... số người Thái sống chủ yếu nhờ vào ruộng chiếm gần 50% số hộ trong các bản. Số hộ sống bằng ½ ruộng ½ nương chiếmkhoảng 1/3 và số còn lại sống chủ yếu bằng nương dẫy [14].

Người Thái có 2 cách phân loại ruộng nước: cách phân loại theo tác động của con người với tự nhiên và cách phân loại mang tính xã hội:

* Cách phân loại theo tác động của con người với tự nhiên có thể thấy biểu hiện trên 3 mặt dưới đây:

- Phân loại ruộng nước theo địa hình. Do địa hình xen kẽ núi đồi, cao nguyên,lòng chảo với điều kiện có nguồn nước nông dân Thái đã có 2 loại ruộng nước:

- Loại ruộng ở 1 nơi bằng phẳng gọi là “na tông”. Địa hình Tây Bắc núi non chắp nối nhau một cách liên tục nên sự bằng phẳng của “na tông” chỉ mang ý nghĩa tương đối. Việc làm “na tông” phải sử dụng kỹ thuật tạo bờ thửa để phân chia thành những ruộng cao, thấp, ngang, dọc sao cho thích hợp với từng khu đất bằng trong toàn bộ vùng thung lũng, lòng chảo hay cao nguyên có độ dốc.

- Loại ruộng ở các nơi eo hẹp men theo chân núi hoặc trên sườn núi gọi là “na hon”. “Na hon” là một khu đất bị cắt nhỏ thành từng thửa ruộng. Một đặc điểm rất cơ bản của địa hình để tạo ra khu “na hon” là không có mặt bằng tự nhiên, hoặc nếu có cũng rất nhỏ hẹp. Bởi vậy, kỹ thuật phổ biến của việc làm “na hon” bao giờ cũng tập trung vào khâu tạo mặt bằng. Trên cơ sở đó mới đắp bờ ngăn nước.

- Phân loại theo nguồn nước.  Người Thái đã phân loại ruộng theo nguồn nước khớp với hoàn cảnh tự nhiên, địa vực cư trú của mình. Ruộng phân loại theo nguồn nước có hai tên gọi: “ruộng nước mưa”(na nặm phạ) và “ruộng nước ngâm”(na nặm che):

- Ruộng nước mưa thường được phân bố trên những cao nguyên chỉ đủ nước cấy 1 vụ. Đặc điểm cơ bản của nguồn nước tưới ruộng nước mưa la phải có 1 lượng ma tối đa để dất no nươcs, từ đó trên mặt đất sẽ xuất hiện những mạch ở khắp nơi và những mạch đó sẽ do người điều khiển cho chảy tới ruộng.

- Ruộng nước ngâm thường tập trung trong các thung lũng lòng chảo – vùng cư dân chủ yếu của người Thái. Đặc điểm của loại ruộng này là con người có thể chủ động được nguồn nước tưới, không phải chờ Trời mưa.Ruộng nước ngâm có thể gồm 3 bộ phận cấu thành: “ruộng (na) mương phai”, “ruộng rộc”(na huỏi hong chong lộc) và “ruộng đầm lầy”(na bướm hay như Phú Yên gọi na lúng). 

 - Phân loại theo hạng tốt xấu.  Hạng tốt bao gồm các thửa ruộng nằm trong loại “ruộng mùn” (na há) Trong đó lại phân ra làm 2 hạng:

- Hạng tốt nhất gồm các thửa ruộng nằm sát bản gọi là ruông mùn bản (na há bản). Hạng tốt vừa bao gồm các thửa ruộng nằm kề miệng mương gọi là ruộng miệng mương (na pá mương).

- Hạng xấu thì chỉ có một loại bao gồm các thửa ruộng nằm kề bên bãi cát, hoặc nằm ở cuối mương, lạch gọi là “ruông bên cát, cuối nước” (na khó sái pai nặm). Các thửa ruộng trung bình khác được xếp vào hạng trung bình gọi là “ruộng ở giữa” (na xảo cang).

Ý nghĩa của việc phân loại ruộng theo hạng tốt xấu và trung bình đối với người Thái trước kia không hẳn đã nhằm mục đích để tác động các khâu kỹ thuật, mà phân loại ruộng theo hạng là để đặt giống lúa cho hợp. Theo họ, việc phân loại ruộng theo hạng, chủ yếu là do chất đất (đất nhiều mùn thì tốt không nhiều mùn thì xấu) và do nước (ruộng chủ động nước thì tốt và nước thất thường thì xấu).

* Sự phân loại ruộng mang tính chất xã hội

a. Nước.
Biện pháp nước được người ta đặt lên hàng đầu trong việc làm ruộng. Theo họ “có nước mới nên ruộng, có ruộng mưói nên lúa”.

Trải qua hàng chục thế kỷ trên đồng ruộng nước, hệ thống thuỷ lợi của người Thái đã tóm tắt trong câu thành ngữ: “mương, phai, lái, lín”. Mương là đường khai để dẫn nước vào ruộng. Có những con mương dài ngót chục cây số vắt qua triền núi đá hoặc uốn mình men theo đường khúc khuỷu của chân đèo đầy chướng ngại vật. Phai là 1 loại đập ngăn suối do người Thái dựng bằng gỗ, tre, nứa và đất để dâng nước đổ vào mương chảy tới ruộng. Phai quyết định lưu lượng nước trong mương. Do đó, việc làm phai là cực kỳ quan trọng. Để làm được phai trước hết họ phải chọn được địa hình, địa vật thuận tiện. Đầu tiên, người ta đặt một thân cây lớn xuống nước, cho 2 đầu tì vào diểm tựa của 2 bên bờ và để ngập 1 nửa thân cây xuống đất ở đáy. Sau đó, đến lượt xếp gỗ và ken gỗ theo hình rẻ quạt gọi là “dựng đầu phai”. Cuối cùng, đến việc lấy tre nứa đan thành phên ốp lên mặt phai và đắp đất kín để mực nước dâng lên chảy vào mương và phần còn lại tràn qua đậpgọi là “hắp phai” (tắt phai). Xưa theo quan niệm mê tín, Phai còn là nơi ở của vị chủ suối (chẩu nặm). Chủ sông suối quyết định sự tồn tại của phai, do đó người ta phải làm lễ cúng phai. Lái bao gồm những phai của hệ thống cọn nước. Hệ thống cọn nước người Thái gọi là “lốc” và “cọn”. Khi “cọn” quay sẽ múc nước ở suối lên sẽ đổ vào hệ thống máng,mương con rồi đổ vào ruộng. Lín là hệ thống mánh dẫn nước vào ruộng. Thường được làm bằng các loại cây có dóng như bương, tre, vầu…máng có nhiều loại, mỗi loại có tác dụng riêng như máng ngầm, máng ngắn dùng để đưa nước vào các thửa ruộng sát mương. Những máng bắc qua sông, suối phải đặt trên cầu treo gọi là “cuộm”. Hệ thống thuỷ lợi mương, phai, lái, lín đã xuất hiện cùng với việc ổn định nơi cư trú,lập bản dựng mường của người Thái từ thế kỷ XIII.

b. Phân bón
Trong phương thức canh tác của đồng bào biện pháp phân hầu như không có gì nên cũng chưa có tập quán làm phân bón. Tuy nhiên, bù lại nguồn phân tự nhiên ở vùng này khá dồi dào. Hàng năm, nguồn phân bón tự nhiên đủ cấy 1 vụ lúa nếp. Phân bón tự nhiên có thể có 3 nguồn chủ yếu. Những trận mưa xối xả hàng năm đã tải phù sa, mùn từ các khu rừng, núi ra sông, suối nhập vào mương chảy về bón cho ruộng. Những trận mưa lớn cuốn từ bản, mường vét phân đổ vào mương, máng ra ruộng. Những đống rơm rác, gốc rạ, phân gia súc sau những tháng cánh đồng bỏ hoá đã mục rữa.

c. Các biện pháp kỹ thuật cổ truyền
Theo kinh nghiệm cổ truyền của người Thái các khâu liên hoàn được tập trung vào 2 giai đoạn: trước khi cấy và sau khi cấy. Đồng bào rất coi trọng những khâu liên hoàn trước khi cấy. Đó là những khâu: cày – giãy cỏ - phát bụi rậm - đắp bờ và bừa sau khi đã dẫn nước tới ruộng. Hoàn thành các khâu đó, đồng ruộng của họ sẽ đạt tiêu chuẩn như câu ngạn nhữ “ bóc trần, giãy sạch ”(háy lỏn, chọn khao). Để hoàn thành các khâu trong giai đoạn này, họ đã dùng 4 công cụ chủ yếu: dao – cày – mai - bừa. Trong 4 công cụ này người Thái chỉ giải quyết được dao va bừa, còn lưỡi càyvà mai đều phải du nhập từ Mường Puồn ( Sầm Nưa - Thượng Lào). Theo phong tục tập quán cũ, sau khi cày xong người ta cất cày ở nơi thờ cúng tổ tiên. Do đặc điểm địa hình bố trí ruộng bậc thang nên việc đắp bờ để giữ nước là rất quan trọng. Muốn đắp bờ cần có cái mai. Kỹ thuật đắp bờ và sạch bờ của ruộng phải đạt tiêu chuẩn “trơn nhẵn, lựa bôi dầu ” (nặm mắn cắn kiểng) việc bừa được tiến hành kỹ càng đủ để làm đất nhuyễn hoà với nước đủu sức cho rễ lúa phát triển.

Vấn đề cấy cũng được người ta đặt ra thành khâu đảm bảo cho sự phát triển của cây lúa nước. Cấy được người Thái coi như khâu quyết định đúng sai thời vụ, thời vụ lại quyết định sự thành bại của mùa lúa, do đó việc cấy phải đảm bảo đúng ngày tháng. Ca dao Thái có câu: “Tháng 10 (tháng 3 dương lịch) nhánh mạ xuống ruộng lo” và cấy vụ mùa thường phải nghe tiếng kêu của con “mèng ngoạng”. Đó là loại ve sầu to kêu vào đầu mùa mưa vang núi, vang rừng.

Các biện pháp kỹ thuật khác như : Tháo cạc ruộng sau một nửa tháng để chân mạ bám chắc rễ vào đất gọi là “khan” . Tiếp sang biện pháp làm cỏ, phát bờ khoảng 2 – 3 lượt rồi bước vào vụ thu hoạch, kết thúc vụ mùa . Giống Ở ruộng nước trồng lúa nếp người Thái chọn được hàng trăm thứ giống thích nghi từng loại ruộng. Có 2 loai chủ yếu: Một là giống nếp “tan” phải cấy trên các thửa ruộng có nước, có nhiều mùn như “ruộng miệng mương” , “ruộng mùn bản”. Nếo tan có nhiều đạm, thân cây chắc, gạo thơm ngon nổi tiếng. Hai là giống nếp “nhoi” mà nay ta thường gọi là “nếp thường”.Nếp nhoi cũng có hàng chục thứ để thích nghi từng loại ruộng trừ “ruộng mùn” song phổ biến hơn cả là thứ nếp gọi là “la”, “bong”. Người Thái xưa cũng đã có những lúa tẻ gọi là “khẩu chăm”( lúa chiêm) hay “khẩu sẻ” (lúa tẻ). Theo tập quán cũ của họ, gạo tẻ để giải quyết vụ đói hoặc để tiếp khách, ăn chơi.

Đặc biệt, ở Phù Yên người ta đã có 1 giống tẻ gọi là “ lúa chăm kim” ( khẩu chăm khêm) chuyên cấy trên ruộng lầy, loại ruông không dùng cày, bừa mà dùng tay chân sục cho bùn, cỏ hoà nhuyễn rồi cấy luôn. Đây là lối canh tác gọi là “thuỷ nậu” (sục bùn) mà các sách xưa đã ghi chép. Mặc dù còn nhiều biện pháp kỹ thuật thô sơ, nhưng với số kinh nghiệm đã thu được, đồng bào Thái đã khai thác được nhiều của cải vật chất trong lĩnh vực làm ruộng nước. Chính nhờ những kinh nghiệm đó mà đồng bào đã thích nghi, tồn tại và phát triển được trong vùng cư trú của mình với tất cả đặc điểm tự nhiên (đất đai, khí hậu, sông suối, rừng núi ) có ở miền đất phía Tây của tổ quổc. Người Thái đã thực sự trở thành một dân tộc nông nghiệp, trong đó việc làm ruộng nước đóng vai trò chủ đạo.

Nương dẫy
Trong cuộc sống xưa của người Thái, nương có nhiều tác dụng. Trong khi trên mặt ruộng chỉ độc canh lúa, trên mặt nương cho phép trồng nhiều loại cây khác nhau như ngô, sắn, vừng, lạc , bông, chàm… và có thể thực hiện việc xen canh nhiều loại cây trồng, nhờ thế đem lại hiệu quả kinh tế cao. Hơn nữa, cái nổi bật vẫn là thiên nhiên Tây Bắc tuy có 1 mạng lưới sông suối dày đặc nhưng phân bố không đều. Vì thiếu nước và thiếu địa điểm để tạo ra ruộngở mọi nơi nên nhiều vung, nhiều nhóm cư dân đã phải chủ yếu sinh sống bằng nương. Tuy nhiên, những cư dân chuyên sinh sống bằng nương đã mất hoàn toàn ưu thế định canh định cư của người làm ruộng nước.Họ không còn có bản ổn định để có thể “ trồng trầu bám chắc rễ, trồng quả mọc thành cây” (tục ngữ: púk pú pên hạ, púk mák pên co). Đã dựa vào nương thì cuộc sống bắt buộc phải trong tình trạng “ba ngày chuyển nhà, ba tháng rời bản” (tục ngữ: xam mại nhạn hướn, xam bượn nhại bản). Do đó, cuộc sống khó khăn đói kém, việc bỏ ruộng đi làm nương chỉ là sự miễn cưỡng. Nương của người Thái có nhiều lại: nương dốc, nương bằng, nương vụ một, nương vu hai, nương lúa, nương chàm…Song nếu phân theo loại hình kinh tế thì có 2 loại: Nương cày thuộc loại hình nông nghiệp dùng cày trên đất khô vì phải dùng đến sức kéo của đại gia súc như Trâu. Nương thuộc loại hình này phổ biến ở người Hà Nhì, người Mèo. Người Thái ở một vài nơi thuộc các châu miền Bắc cũng học tập đồng bào Mèo áp dụng kỹ thuật cày nương nhưng chưa giỏi. Phổ biến hơn cả vẫn là loại hình kinh tế nông nghiệp cùng cuốc hay dùng tay. Đồng bào gọi loại hình nương này là “hay”, đúng nghĩa của người Thái nương (hay) là: Một khoảng đất rừng bị người ta chặt phá, đốt, dọn sạch, xới đất để trồng trọt. Theo lối làm ăn của người Thái xưa có những loại nương chuyên canh và xen canh như sau: Nương lúa thường trồng xen vừng, lạc, dưa bở, bầu, bí, khoai sọ. Nương ngô thường trồng xen đậu nho nhe, bí, bầu. Nương kê trồng xen vừng, lúa miến và dành một khoảnh trồng lạc. Nương bông trồng xen dưa. Nương chàm có 2 loại: “chám”, “hỏm”. Ngày nay còn có nương sắn trồng xen dưa gối vụ.

Tất cả các loại nương này nói chung đều phải qua các biện pháp kỹ thuật liên hoàn: chọn đất, phát rừng, đốt và dọn, xới đất (người Thái làm nương không cuốc đất), trồng trọt, chăm sóc và thu hoạch. Để thực hiện các biện pháp liên hoàn này, họ chỉ cần sử dụng những công cụ đơn giản: dao, rìu, cuốc, bướm giãy cỏ, xới đất gọi là “ chop” , “kơ-ve”, cái gậy chọc lỗ để tra hạt giống và các công cụ phục vụ cho việc thu hoạch như: nhíp, liềm, néo… Trong các công cụ trên thì dao được coi như công cụ vạn năng.

Sau khi chọn được mảnh nương người chủ đánh dấu sở hữu bằng một mảnh phên đan mắt cáo hình ngũ giác gọi là “la leo”. Bắt đầu từ tháng 2 dương lịch (tháng 7 lịch Thái) người ta bắt đầu phát nương. Sang tháng 3 (tháng 8 lịch Thái) mùa khô hanh phát triển đến đỉnh cao người ta đốt và dọn nương. Khoảng cuối tháng 4, 5 (tháng 9, 10 lịch Thái) khi những trận mưa đầu mùa đã liên tiếp đỏ xuống làm tăng độ ẩm của đất, hạt cây cỏ bắt đầu nảy mầm người làm nương bắt dầu gieo hạt. Cách tra hạt giông của họ cũng rất cổ xưa. Đàn ông đi trước dùng gậy vót nhọn đầu chọc xuống đất, đàn bà theo sau tra hạt vào hố Nếu ở ruộng khâu cấy hay không cấy quyết định việc kịp hay không kịp thời vụ thì ở nương, khâu đốt và trồng sẽ định rõ thời vụ. Vụ nương đòi hỏi đúng thời vụ hơn ruông nên các khâu liên hoàn phải được tiến hành trong 1 – 2 tháng rất khẩn trương. Đồng bào làm nương theo trình tự luân canh bỏ hoá. Một mảnh nương thường chỉ lam 1 -2 đến 3 vụ là cùng. Nương rẫy của đồng bào lọt vào những vùng rừng núi trùng điệp, xứ sở của chim muông thú rừng phá hoại, thêm vào đó gia súc chăn nuôi thao lối thả rông cũng kà đối tượng phá hoại nương rẫy. Viêc rào nương để bảo vệ nương là rất quan trọng. Việc bảo vệ được tiến hành từ lúc hạt giống mới gieo hạt, quả… Lúc đầu, vì dân số còn ít, sự khai thác biến rừng thành nương còn chưa tạo ra những hậu quả nghiêm trọng. Nhưng nay, lối làm nương rẫy có thể gọi là loại hình kinh tế “ chém gốc ăn ngọn” nó phá huỷ nguồn tài nguyên rừng vàng của đất nước. Vì vậy, ngày nay việc triệt để thi hành luật bảo vệ rừng của nhà nước ta cần đề ra một cách cấp thiết để chấm dứt tình trạng phát nương bừa bãi

3. Lịch sản xuất và ý nghĩa của trồng trọt
Việc trồng lúa trên nương cũng như trên ruộng nước đã làm cho người Thái có thể tự túc được lương thực. Để bố trí thời gian cho việc sản xuất lương thực đồng bào đã hình thành một bản kịch. Lịch đó quy định các khoản về đồng áng và nương rẫy đại thể như sau: Tháng theo lịch thái Tháng âm lịch Tháng dương lịch Các công việc ở ruộng nương 1 7 8 làm cỏ nương, nửa tháng đầ tranh thủ cấy cho kịp thời vụ, thu ngô ở nương 2 8 9 thu lúa nương, tháo nước bắt cá ở ruộng 3 9 10 nghỉ ngơi hoặc thu lúa sớm 4 10 11 thu lúa ruộng 5 11 12 tiếp tục thu nốt lúa ruộng rồi nghỉ ngơi 6 12 1 Nghỉ ngơi 7 1 2 phát nương,gieo ngô sớm 8 2 3 đốt nương,làm thuỷ lợi, đắp bờ ruộng Gieo lúa và ngô nương, gieo mạ mùa 9 3 4 thu lúa nương,cày bừa, đắp bờ ruộng. Làm cỏ nương ngô sớm, ương trứng cá thả ruộng 10 4 5 làm cỏ nương, bừa ruộng và tiếp tục làm ruộng cấy chay, cấy lúa sớm, thu hoạch sớm 11 5 6 cấy, làm cỏ nương ngô 12 6 7 cấy ruộng, làm cỏ nương lúa, ngô Nhìn trên tấm lịch làm ăn này, ruộng nương tuy là đối tượng lao động chủ yếu của đồng bào, nhưng số công lao động bỏ vào đây không phải đã đạt đến mức tuyệt đối. Theo con số điều tra của bản Phiềng Ngùa, xã Chiềng Xôm, huyện Mường La , tỉnh Sơn La số ngày công lao động cao nhất của 1 người đàn ông là 150, đàn bà là 40, người già và trẻ em là 20. Số ngày công đó lại phân bố không đều, công việc thường dồn vào 6 tháng cuối năm theo lịch Thái và 6 tháng đầu năm theo âm, dương lịch. Thiên nhiên ở đây đã ưu ái cho cư dân thưa thớt sống về nghề trồng trọt. Một vùng khí hậu ở vành đai nhiệt đới, gió mùa lại xen lẫn tính đa dạng của khí hậu rừng núi, cây cối phát triển tốt, xanh tươi quanh năm thì trồng trọt. cụ thể là làm ruộng, làm nương trong một phương thức tự nhiên với điều kiện đất rộng người thưa thời ấy là thuận lợi hơn cả.

Kết Luận 
Người Thái Tây Bắc có cuộc sống định cư từ rất sớm trong lịch sử và có trình độ phát triển kinh tế xã hội khá cao so với các dân tộc trong Vùng. Đây chính là cơ sở nền tảng để từng bước hình thành chế độ ruộng đất nói chung và các loại hình ruộng đất trong xã hội Thái nói riêng.

Việc xác định các loại hình ruộng đất và tên gọi các loại ruộng, nương trong sản xuất nông nghiệp giúp chúng ta định hình được đặc trưng kinh tế của cộng đồng dân tộc Thái Tây Bắc là kinh tế nông nghiệp với hai ngành sản xuất chính: trồng trọt và chăn nuôi

Trong đời sống kinh tế của người Thái Tây Bắc, sản xuất nông nghiệp, nhất là trồng trọt giữ vai trò đăc biệt quan trọng, nó là loại hình kinh tế truyền thống có từ lâu đời. Trồng trọt không chỉ cung cấp nguồn lương thực thực phẩm cho dân bản mà còn gắn bó thân thiết với cuộc sống của con người nơi đây. Việc phát triển trồng trọt luôn được cộng đồng quan tâm đúng mức để đem lại hiệu quả kinh tế cao và song song với việc bảo vệ môi trường. Điều này có ý nghĩa to lớn đối với ngành trồng trọt nói chung và đặc biệt là đối với kinh tế trồng trọt của đồng bào miền núi vì nó liên quan trực tiếp đến bảo vệ rừng.


Tìm hiểu về các loại hình ruộng đất và sản xuất nông nghiệp trong xã hội Thái truyền thống góp phần làm phong phú thêm kho tàng tri thức của văn hóa, văn minh Đại Việt.

Tài liệu tham khảo.
1.(1975) Các tộc người ở Tây Bắc Việt Nam. Ban Dân tộc Khu tự trị Tây Bắc xuất bản. 
2. (1976) Các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam (dẫn liệu nhân chủng học). Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Đặng Nghiêm Vạn, Nghiêm Trúc Bình, Nguyễn Văn Huy, Thanh Thiên (1972): Những nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á  ở Tây Bắc. Nhà xuất bản KHXH,  Hà Nội.
4. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên) (1977): Tư liệu về lịch sử và xã hội Thái ở Việt Nam.  Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. (1998) Văn hoá và Lịch sử người Thái ở Việt Nam. Nhà xuất bản  Văn hoá Dân tộc,  Hà Nội.
6. Trần Quốc Vượng (chủ biên), (1998). Cơ sở Văn hoá Việt Nam. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
7. (1972) Nhân dân các dân tộc Tây Bắc chống thực dân Pháp xâm lược
8. Cần Trọng (1978), Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội
9. Đinh Xuân Lâm (1979), Điện Biên trong lịch sử, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
10. Nguyễn Phan Quang (1996): Phong trào nông dân và các dân tộc miền núi dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX: Tóm tắt  luận án Phó tiến sỹ Lịch sử; Chuyên ngành Lịch sử  Việt Nam. Tài liệu lưu tại Thư viện Đại học sư phạm Hà Nội. 
11. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2001). Đại cương lịch sử Việt Nam. Toàn tập. NXB GD. HN.
12. Tài liệu lịch sử địa phương của các dân tộc, như: Kể truyện bản mường của người Thái, Sách Mo của người Lự, Sách Mo của người Mường.  
13. Quam tô mương (Kể chuyện bản mường) của Thuận Châu, Mường La, Mường Sang (Mộc Châu), Mường Vạt (Yên Châu), Mường Tấc (Phù Yên),  (Kể chuyện bản mường ở Mường Piềng). Tài liệu lưu tại bảo tàng Sơn La.
14. Táy Pú Xấc (Những bước đường chinh chiến của cha ông).Tài liệu lưu tại Bảo tàng Sơn La.

15. Chương Han. Tài liệu lưu tại Bảo tàng Sơn La.

1 nhận xét: