Nói đến luật tục tức là nói đến phong tục, tập quán đã hình
thành trong nhiều thế hệ. Luật tục vẫn tồn tại và có một vị trí quan trọng
trong việc điều chỉnh các mối quan hệ đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Ở mỗi dân tộc thiểu số khác nhau có luật tục riêng, thể hiện bản sắc, đặc trưng
riêng của dân tộc mình.
Trong cộng đồng các dân tộc, luật tục được
thành viên trong cộng đồng nghiêm chỉnh tuân theo một cách tự giác. Những người
vi phạm luật tục cũng đồng nghĩa với việc xúc phạm đến thần linh, đến đức tin của
cả cộng đồng.
Luật tục (người Thái gọi là Hịt khỏng, người ÊĐê gọi là Phạtkđi,
người M’nông gọi là Phạtkđuôi, người Mạ gọi là N’Ri, người Gia Rai gọi là
Tơlơiphian,…) đều có điểm chung là một mặt nó mang những yếu tố của luật pháp
(quy định các hành vi phạm tội, các loại và mức độ tội phạm,…), nhưng mặt khác,
luật tục mang tính chất của lệ tục, phong tục (những quy ước, những điều răn dạy,
những điều khuyên nhủ mang tính đạo đức, hướng dẫn hành vi cho mỗi cá nhân, tạo
dư luận xã hội để điều chỉnh các hành vi của con người. Nội dung Luật tục của
các dân tộc bao gồm các quy định về quan hệ cộng đồng, quan hệ của người đứng đầu
bản mường với dân, quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng làng bản, giữa
cha mẹ với con cái, về sở hữu tài sản, sở hữu đất đai, nương rẫy, nguồn nước,
giữ gìn trật tự công cộng, giữ bình yên, hoà thuận trong bản mường…
Luật tục xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của đời sống xã hội
của mỗi dân tộc, phụ thuộc nhiều vào trình độ, ý chí chủ quan của các thành
viên sống trong cộng đồng đó, trong đó có người đứng đầu (bản mường, chủ làng,
chủ buôn, hội đồng già làng), do đó vừa thể hiện những mặt tích cực những cũng
tồn tại những mặt tiêu cực đối với đời sống kinh tế-xã hội của đồng bào các dân
tộc.
Luật tục các dân tộc thiểu số thể hiện tính nhân văn, tinh
thần đoàn kết, cộng đồng dân tộc rất cao. Tuỳ theo từng dân tộc, nội dung của
các luật tục thường quy định các vấn đề liên quan đến điều chỉnh các mối quan hệ
gia đình như: quan hệ vợ chồng, con cái, cha mẹ, ông bà, anh chị em. Con cái phải
thương yêu, kính trọng, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ; anh chị em phải thương yêu
đùm bọc lẫn nhau. Hầu hết các luật tục đều khuyên dạy vợ chồng phải yêu thương
quý trọng lẫn nhau, sống với nhau thuỷ chung "Đã lấy vợ thì phải ở với vợ
cho đến hết đời, đã cầm cần mời rượu thì phải vào cuộc cho đến khi rượn nhạt,
đã đánh cồng thì phải đánh cho đến khi người ta giữ tay lại" (Luật tục
Êđê). Các quy định của luật tục các dân tộc thiểu số góp phần điều hoà các mối
quan hệ xã hội trong bản, mường, buôn, làng, play, quan hệ giữa các dòng họ, giữ
gìn trật tự an ninh, phòng chống các tệ nạn xã hội (trộm cắp, nghiện ngập, ngoại
tình,…); bênh vực và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người phụ nữ và trẻ em…
Luật tục các dân tộc thiểu số góp phần bảo vệ thuần phong mỹ
tục, bảo vệ các nguồn lợi từ thiên nhiên (bảo vệ rừng lâu năm, rừng đầu nguồn,
rừng thiêng, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ nguồn tôm cá, cấm đánh bắt, săn bắn bừa
bãi,…). Chẳng hạn như ở vùng đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, vì coi rừng là
nguồn tài sản vô giá của buôn làng, rừng có quan hệ mật thiết với cộng đồng dân
cư, luật tục quy định rõ tầm quan trọng của bảo vệ rừng, tôn trọng các quy tắc
của cộng đồng về xác lập chủ quyền đối với rừng và đất rừng của từng gia đình,
dòng họ. Luật tục Ê Đê có đoạn "…Cây le đang đâm chồi thế mà họ chặt mất
ngọn, cây lồ ô đang đâm chồi thế mà họ chặt mất đọt. Nếu người ta bắt được họ
đem cho người tù trưởng nhà giàu thì chân họ tất phải trói lại, tay của họ tất
phải xiềng lại. Cả rừng le bị cháy khô, cả rừng lồ ô bị cháy trụi, hang thỏ,
hang chồn đều bị thiêu trụi tất cả. Vì vậy có chuyện nghiêm trọng cần phải xét
xử họ".
Luật tục người Mường quy định về thu hái măng nói rõ: "Bắt
đầu từ khi các loại măng tre, bương, luồng, nứa,… mọc cho đến trước ngày 20
tháng 6 âm lịch hàng năm (mùa măng mọc bắt đầu từ mùa xuân; từ mùa xuân cho đến
gần hết tháng 6 âm lịch là thời gian thuận lợi để măng phát triển thành cây; từ
tháng 7 âm lịch trở đi, mặc dù măng vẫn mọc nhiều nhưng do thời tiết thường nhiều
mưa, dễ phát sinh sâu bệnh; thêm vào đó là các trận bão dễ làm măng bị bẻ gãy,
măng khó có thể phát triển thành cây-người viết), bất luận là ai cũng không được
bẻ măng trong rừng hay trong các gồ bương tre,… trong vườn do chính tay mình trồng.
Ai vi phạm dù là con trẻ hay người lớn (kể cả các gia đình thả rông gia súc vào
rừng dẫm đạp làm đổ gãy măng) nếu bị phát hiện thì gia đình đó phải nộp phạt
cho mường 1 con lợn cái (lợn nái đã đẻ)". Việc bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản
dưới sông, suối ở vùng người Mường được người dân quy định thành lệ tục. Trên
các con sông, suối được chọn ngăn từng khúc, từng khoang, có những khúc sông,
suối ngày thường không ai được phép đánh bắt cá đó là những khúc sông suối có
các đặc điểm: một nửa nước sâu còn một nửa dòng nước chảy vừa phải, có bãi cát
ngầm thoai thoải hay nhiều hang hốc đá ngầm, rất thuận lợi, an toàn cho các loại
cá sinh đẻ và trốn tránh kẻ thù, là nơi để cung cấp giống bền vững cho sự tái tạo,
phát triển lâu dài của các loài. Việc cấm đánh cá, bảo vệ những khúc sông, suối
đó được thần thánh, tâm linh hoá; do đó, ngoài việc sợ bị phạt, dân Mường còn sợ
làm kinh động đến các vị thần linh (rồng, thuồng luồng,…) nên trong các gia
đình, họ tộc Mường, người già bảo người trẻ, ông bà, cha mẹ dặn dò con cháu, mọi
người đều chấp hành rất nghiêm chỉnh. Hay ở vùng đồng bào Chăm, để giữ gìn đập
nước và phân phối nước, đồng bào cắt cử cai đập-đó là người trực tiếp thay mặt
nhân dân điều hành hệ thống thuỷ lợi theo quy định của luật tục…
Cách xử lý các vi phạm của luật tục thể hiện tính dân chủ cộng
đồng và tính quần chúng. Từ việc hình thành và điều chỉnh các quy định cho đến
việc thi hành; bao gồm việc bàn luận công khai dân chủ trong cộng đồng về các vụ
việc việc cùng thống nhất nhận định, kết luận về mức độ và tính chất của lỗi lầm,
sai phạm; đến việc đưa ra các mức xử phạt và cuối cùng là theo dõi giúp đỡ sửa
chữa, tránh tái phạm và thi hành các qui định của toàn thể cộng đồng. Các điều
phạt mang tính chất giáo dục răn đe, ngăn chặn, đề phòng. Những điều răn dạy mọi
người không nên làm những việc xấu, không làm những điều ác, không trộm cắp,
không loạn luân, không uống rượu say, không đánh đập vợ con,…; lấy việc khoan
dung, hoà giải làm trọng. Luật tục thể hiện tinh thần trách nhiệm chung của cộng
đồng đối với lỗi lầm. Thông thường, trong các luật tục, việc xét xử các tội lỗi
phải thực hiện qua các bước từ gia đình, dòng họ rồi mới đến buôn, làng, play.
Qua cách xử lý như vậy, mọi thành viên từ già tới trẻ được giáo dục ý thức
trách nhiệm, tinh thần xây dựng, sự hy sinh những tham vọng cá nhân vì lợi ích
chung của gia đình, dòng họ, cộng đồng làng bản.
Bên cạnh những yếu tố tích cực mang tính văn hóa, nhân văn
như đã đề cập ở trên; luật tục còn bảo lưu nhiều yếu tố lạc hậu, lỗi thời có ảnh
hưởng xấu đến sức khoẻ, đến tình cảm trong cộng đồng các dân tộc. Chẳng hạn như
tục nối dây (chun nuê của người Ê Đê hay mã kơ mai của người Chăm Roi) là một
luật tục tồn tại từ rất lâu trong hôn nhân của đồng bào. Luật tục này quy định
khi người vợ qua đời, người chồng muốn tái hôn buộc phải lấy một người con gái
trong gia đình vợ (có thể là người em gái vợ còn rất nhỏ tuổi hay người chị vợ
già hơn rất nhiều, miễn là người đó chưa có chồng). Nếu không còn người nối dây
thì người chồng phải về lại nhà mẹ đẻ với hai bàn tay trắng. Ngược lại, nếu người
chồng chết mà gia đình chồng không muốn mất của cải cũng phải đưa người (anh
trai hay em trai chưa có vợ của người chồng đã chết) sang nhà người vợ để thực
hiện tục nối dây. Đồng bào quan niệm: "Rầm sàn gãy thì phải thay, giá sàn
nát thì phải thế, chết người này thì phải nối bằng người khác" (Luật tục Ê
Đê) Việc chấp nhận làm vợ hoặc làm chồng được thực hiện một cách tự nguyện,
trên tinh thần do hai bên gia đình bàn bạc thống nhất (trong hoặc sau đám
tang), không ép buộc. Nếu không thể nối dây tiếp được thì xem như người còn lại
trở thành độc thân, có quyền tiếp tục cuộc hôn nhân khác mà không phải ràng buộc
gì với con cái của mình. Những đứa trẻ mồ côi sau khi mẹ chết, không có người nối
dây, người cha cũng bỏ về nhà mẹ đẻ và đi lấy vợ khác sẽ không còn nơi nương tựa,
bị bỏ rơi hoặc là phải sống phụ thuộc vào sự chăm sóc của ông bà ngoại tuổi đã
cao, sức đã yếu, không còn khả năng lao động. Hay trong luật tục của ngời Gia
Rai lại cho phép người đàn bà có chồng chết được quyền lấy cháu ruột của người
chồng đó (do quan niệm làm như vậy để tạo nên mối quan hệ bền chặt trong dòng họ).
Tuy nhiên, trên thực tế luật tục này đã khiến cho nhiều người phụ nữ rơi vào
tình trạng bất hạnh, khổ sở vì sự chênh lệch tuổi tác (vợ già còn chồng lại quá
trẻ). Một số quy định trong luật tục của các dân tộc xử phạt người phụ nữ rất nặng (đối
với tội ngoại tình, loạn luân hay quan hệ tình dục trước hôn nhân), như dân tộc
Xê Đăng có quy định: Nếu người phụ nữ có thai trước khi cưới sẽ bị phạt heo và rượu để cả buôn làng cùng uống,…
Nhiều dân tộc quan niệm người phụ nữ thường gắn với những gì không sạch sẽ, vì
vậy, luật tục quy định người phụ nữ đến kỳ sinh đẻ phải đẻ ở ngoài rừng (ngoài
chòi canh của gia đình), phải một mình tự xoay sở; trong vòng 10-15 ngày người
chồng ở cùng người vợ và không được đặt chân lên nhà ai, kể cả nhà mình. Hết thời
gian đó, hai vợ chồng nấu nước nóng, bỏ lá thơm, đổ lên một hòn đá to và xông
hơi đó rồi mới được về nhà,…Vì vậy, nhiều trường hợp người phụ nữ bị chết do
sinh đẻ, tỷ lệ phụ nữ – trẻ em ở những vùng này mắc bệnh cao. Luật tục của ngời
K’Ho và người Chu Ru quy định, một phụ nữ có chồng không may bị chết trước thì
họ phải đứng ra sắm sửa lễ vật mang đến nhà trai xin được xây mộ cho chồng, xây
xong mộ, họ phải làm thịt một con trâu và cơm rượu để mời họ hàng nhà trai ăn uống
(tục Pơthi Shakơtinh-hay "trả nợ xương cốt"). Nếu do điều kiện kinh tế
khó khăn mà người phụ nữ không hoàn thành được nghĩa vụ của mình thì con gái của
người vợ goá bụa ấy phải tiếp tục thay mẹ "pơthi" cho cha và "sakơtinh"
cho họ hàng bên nội. Nếu người con gái mồ côi ấy chưa có khả năng thực hiện
nghĩa vụ nặng nề này thì lại tiếp tục truyền lại gánh nặng cho con, cháu, chắt
gái của mình. Đối với những cô gái còn trẻ, không may chồng chết sớm thì họ
cũng phải trả xong "món nợ xương cốt" rồi mới được đi lấy chồng khác.
Người K’Ho cho rằng, lễ cưới có thể qua loa, đơn giản và có thể cho "nợ",
nhưng "ăn xương" thì phải thật chu toàn đúng như sự quy định của luật
tục để linh hồn người chết được bình yên ở thế giới bên kia và không trách cứ
hay quấy nhiễu người sống nữa. Trên thực tế, Pơthi Shakơtinh đã trở thành gánh
nặng đè lên vai của người quả phụ, thậm chí còn trở thành gánh nặng cho nhiều
thế hệ con cháu nếu chưa hoàn thành nghĩa vụ nặng nề này. Đây là một trong số
những luật tục mà các quy định của nó không phù hợp, cần phải được loại bỏ ra
khỏi đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Như vậy, duy trì, phát huy những yếu tố tích cực, loại bỏ
những hủ tục của luật tục truyền thống trong cộng đồng các dân tộc thiểu số là
một công việc có ý nghĩa quan trọng để có thể hình thành, củng cố các làng, bản,
buôn, phum sóc văn hoá, cơ sở để thực hiện tốt vấn đề nông dân, nông thôn, nông
nghiệp trên địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét