Tên gọi khác: Tay Thanh, Man Thanh, Tay Mười, Tày Mường,
Hàng Tổng, Tay Dọ, Thổ.
Nhóm địa phương: Ngành Ðen (Tay Ðăm), Ngành trắng
(Tay Ðón hoặc Khao).
Dân số: 1.550.423 người (theo kết quả điều tra dân số năm 2009 của Tổng cục
thống kê)
Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ
Thái - Ka Ðai).
Lịch sử: Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục
địa, tổ tiên xa xưa của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm.
Hoạt động sản xuất: Người Thái sớm đi vào nghề trồng lúa
nước trong hệ thống thuỷ lợi thích hợp được đúc kế như một thành ngữ -
"mương, phai, lái, lịn" (khơi mương, đắp đập, dẫn nước qua vật chướng
ngại, đặt máng) trên các cánh đồng thung lũng. Họ làm ruộng cấy một vụ lúa nếp,
nay chuyển sang 2 vụ lúa tẻ. Họ còn làm nương để trồng thêm lúa, ngô, hoa màu,
cây thực phẩm và đặc biệt bông, cây thuốc nhuộm, dâu tằm để dệt vải.
Người Thái Ðen ở Mường Chanh (Sơn La) có
nghề làm gốm với các sản phẩm quen thuộc như nồi đất, chõ đất, đồ đựng chum,
vò.
Dệt vải là một nghề thủ công truyền thống lâu đời của người
Thái. Hình ảnh cô gái Thái bên khung cửi, nét đẹp quen thuộc vẫn thường gặp ở mỗi
nhà trong làng bản.
Cót xát rất phổ biến ở vùng người Thái, dùng để trải trên
sàn trước khi xếp chiếu phục tay và các tấm đệm ngủ lên trên. Cót được đan bằng
cây mạy loi, một loại cây thuộc loài tre, nứa mọc trên núi đá vôi cao.
Ðưa tiến bộ kỹ thuật vào cuộc sống đảm bảo sự phát triển bền vững
của các dân tộc. Nuôi cá lồng trên sông, suối là mọt nghề mới mang lại thu nhập
cao.
Cọn nước là cách vận chuyển nước từ chỗ thấp lên chỗ cao để lấy nước
tưới ruộng. Ðỗ là một phát minh quan trọng của các cư dân làm nông nghiệp vùng
thung lũng.
Mỗi nhà người Thái thường có hai bếp, một bếp để tiếp khách, sưởi ấm,
một bếp khác để nấu cơm. Chõ xôi (ninh đồng, chõ gỗ) được đặt trên 3 ông đầu
rau bằng đá. Phía trên bếp có giàn để các thức cần sấy khô. Người Thái thường
dùng ghế mây tròn để ngồi quanh bếp.
Ăn: Ngày nay gạo tẻ đã trở thành lương thực
chính, gạo nếp vẫn được coi là lương ăn truyền thống. Gạo nếp ngâm, bỏ vào chõ,
đặt lên bếp, đồ thành xôi. Trên mâm ăn không thể thiếu được món ớt giã hoà muối,
tỏi, có rau thơm, mùi, lá hành... có thể thêm gan gà luộc chín, ruột cá, cá nướng...
gọi chung là chéo. Hễ có thịt các con vật ăn cỏ thuộc loài nhai lại
thì buộc phải có nước nhúng lấy từ lòng non (nặm pịa). Thịt cá ăn tươi
thì làm món nộm, nhúng (lạp, cỏi), ướp muối, thính làm mắm; ăn chín, thích hợp
nhất phải kể đến các món chế biến từ cách nướng, lùi, đồ, sấy, sau đó mới đến
canh, xào, rang, luộc... Họ ưa thức ăn có các vị: cay, chua, đắng, chát, bùi,
ít dùng các món ngọt, lợ, đậm, nồng... hay uống rượu cần, cất rượu. Người Thái
hút thuốc lào bằng điếu ống tre, nứa và chạm bằng mảnh đóm tre ngâm, khô nỏ.
Người Thái Trắng trước khi hút còn có lệ mời người xung quanh như trước khi ăn.
Mặc: Cô gái Thái đẹp nhờ mặc áo cánh ngắn,
đủ màu sắc, đính khuy bạc hình bướm, nhện, ve sầu... chạy trên đường nẹp xẻ ngực,
bó sát thân, ăn nhịp với chiếc váy vải màu thâm, hình ống; thắt eo bằng dải lụa
màu xanh lá cây; đeo dây xà tích bạc ở bên hông. Ngày lễ có thể vận thêm áo dài
đen, xẻ nách, hoặc kiểu chui đầu, hở ngực có hàng khuy bướm của áo cánh, chiết
eo, vai phồng, đính vải trang trí ở nách, và đối vai ở phía trước như của Thái
Trắng. Nữ Thái Ðen đội khăn piêu nổi tiếng trong các hình hoa văn thêu nhiều
màu sắc rực rỡ. Nam người Thái mặc quần cắt để thắt lưng; áo cánh xẻ ngực có
túi ở hai bên gấu vạt, áo người Thái Trắng có thêm một túi ở ngực trái; cài
khuy tết bằng dây vải. Màu quần áo phổ biến là đen, có thể màu gạch non, hoa kẻ
sọc hoặc trắng. Ngày lễ mặc áo đen dài, xẻ nách, bên trong có một lần áo trắng,
tương tự để mặc lót. Bình thường cuốn khăn đen theo kiểu mỏ rìu. Khi vào lễ cuốn
dải khăn dài một sải tay.
Ở: Ở nhà sàn, dáng vẻ khác nhau: nhà mái tròn khum
hình mai rùa, hai đầu mai rùa, hai đầu mái hồi có khau cút; nhà 4
mái mặt bằng sàn hình chữ nhật gần vuông, hiên có lan can; nhà sàn dài, cao, mỗi
gian hồi làm tiền sảnh; nhà mái thấp, hẹp lòng, gần giống nhà người Mường.
Phương tiện vận chuyển: Gánh là phổ biến, ngoài ra gùi theo
kiểu chằng dây đeo vắt qua trán, dùng ngựa cưỡi, thồ nay. ở dọc các con sông lớn
họ rất nổi tiếng trong việc xuôi ngược bằng thuyền đuôi én.
Quan hệ xã hội: Cơ cấu xã hội cổ truyền được gọi là
bản mường hay theo chế độ phìa tạo Tông tộc Thái gọi là Ðằm. Mỗi
người có 3 quan hệ dòng họ trọng YẾU: ẢI Noong (tất cả các
thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất
cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ).Nhinh Xao (tất
cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể). (tất cả các thành viên
nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các
thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ).Nhinh Xao (tất cả các
thành viên nam thuộc họ người đến làm rể).
Cưới xin: Trước kia người Thái theo chế độ hôn
nhân mua bán và ở rể nên việc lấy vợ và lấy chồng phải qua nhiều bước, trong đó
có 2 bước cơ bản:
- Cưới lên (đong khửn) - đưa rể đến
cư trú nhà vợ - là bước thử thách phẩm giá, lao động của chàng rể. Người Thái
Ðen có tục búi tóc ngược lên đỉnh đầu cho người vợ ngay sau lễ cưới này. Tục ở
rể từ 8 đến 12 năm.
- Cưới xuống (đong lông) đưa gia
đình trở về với họ cha.
Sinh đẻ Phụ nữ đẻ theo tư thế ngồi, nhau bỏ vào ống tre
đem treo trên cành cây ở rừng. Sản phụ được sưởi lửa, ăn cơm lam và kiêng khem
một tháng; ống lam bó đem treo trên cành cây. Có nghi thức dạy trẻ lao động
theo giới và mời Lung Ta đến đặt tên chi cháu.
Ma chay: Lễ tang có 2 bước cơ bản:
- Pông: Phúng viếng tiễn đưa hồn
người chết lên cõi hư vô, đưa thi thể ra rừng chôn (Thái Trắng), thiếu (Thái
Ðen).
- Xống: gọi ma trở về ngụ ở
gian thờ cúng tổ tiên ở trong nhà.
Nhà mới: Dẫn chủ nhân lên nhận nhàLung Ta châm
lửa đốt củi ở bếp mới. Người ta thực hiện tại nghi lễ, cúng đọc bài mo xua đuổi
điều ác thu điều lành, cúng tổ tiên, vui chơi.
Lễ tết: Cúng tổ tiên ở người Thái Ðen vào
tháng 7, 8 âm lịch. Người Thái Trắng ăn tết theo âm lịch. Bản Mường có cúng thần
đất, núi, nước và linh hồn người làm trụ cột.
Lịch: Theo hệ can chi
như âm lịch. Lịch của người Thái Ðen chênh với âm lịch 6 tháng.
Học: Người Thái
có mẫu tự theo hệ Sanscrit. Họ học theo lệ truyền khẩu. Người Thái có nhiều tác
phẩm cổ viết về lịch sử, phong tục, luật tục và văn học.
Văn nghệ: Người Thái
có các điệu xoè, các loại sáo lam và tiêu, có hát thơ, đối đáp giao duyên phong
phú.
Chơi: Trò chơi của
người Thái phổ biến là ném còn, kéo co, đua ngựa, dạo thuyền, bắn nỏ, múa xoè,
chơi quay và quả mák lẹ. Nhiều trò chơi cho trẻ em.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét