Văn hóa là một trong những hình thái ý thức xã hội, phản
ánh tồn tại xã hội. Văn hóa cùng với ý các hình thái ý thức chính trị, ý thức
pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức khoa học, ý thức tôn giáo,... đã tạo nên diện
mạo phong phú, đa dạng của đời sống tinh thần của một dân tộc và một thời đại.
Song hành với quá trình khai mở tự nhiên thông qua hoạt động thực tiễn, con người
đã làm nên lịch sử văn minh của mình. Thời gian như chảy bất tận nhưng trong
dòng chảy ấy lại là sự cô đọng của những gì tinh tuý nhất mà con người đã gây dựng
trong sinh tồn để làm thành truyền thống, bản sắc văn hóa của dân tộc. Với tư
cách là một trong những hình thái ý thức xã hội, văn hóa được nhìn nhận bằng nhiều
quan điểm khác nhau tương ứng với cách tiếp cận vấn đề.
Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về văn hóa là một hệ
thống quan điểm khách quan, toàn diện, cụ thể. Về cơ bản, Đảng đứng trên lập
trường Mác xít khẳng định văn hóa là những giá trị vật chất và tinh thần do hoạt
động sáng tạo của con người trong quá trình chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội,
có quan hệ biện chứng với các hình thái ý thức khác. Với đặc trưng đó, văn hóa
trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực thúc đẩy kinh tế-xã hội
phát triển.
Trong 4 dân tộc thiểu số (H'Mông, Thổ, Khơ mú, Thái) sinh tụ ở Nghệ An thì dân tộc Thái là dân tộc chiếm số đông (70,09%). Về cơ bản, dân tộc Thái ở Nghệ An chia làm ba nhóm chính là: tày Mường, tày Thanh và Tày Mười. Văn hóa Thái ở Nghệ An là một nền văn hóa lâu đời, có bản sắc riêng rất độc đáo nhưng cũng không kém phần phong phú. Từ cái nhìn của triết học cho thấy văn hóa Thái ở Nghệ An được biểu hiện trên hai lĩnh vực: Văn hoá vật chất và văn hóa tinh thần: Thứ nhất, lĩnh vực văn hóa vật chất, bao gồm:
Trong 4 dân tộc thiểu số (H'Mông, Thổ, Khơ mú, Thái) sinh tụ ở Nghệ An thì dân tộc Thái là dân tộc chiếm số đông (70,09%). Về cơ bản, dân tộc Thái ở Nghệ An chia làm ba nhóm chính là: tày Mường, tày Thanh và Tày Mười. Văn hóa Thái ở Nghệ An là một nền văn hóa lâu đời, có bản sắc riêng rất độc đáo nhưng cũng không kém phần phong phú. Từ cái nhìn của triết học cho thấy văn hóa Thái ở Nghệ An được biểu hiện trên hai lĩnh vực: Văn hoá vật chất và văn hóa tinh thần: Thứ nhất, lĩnh vực văn hóa vật chất, bao gồm:
- Phạm vi (không gian) cư trú: là địa bàn nơi người Thái
sinh sống. Dải đất ăn đời ở kiếp của mình được người Thái gọi là "bản"
hay còn gọi là "Mật Tập". Đặc điểm của "Mật Tập" là không lấy
vườn tược, đồi nương và đường đi lối lại để quy định vị trí của nó mà lấy thế đất
làm điểm trung tâm khai mở cho tổ ấm của mình. Về cơ bản người Thái ở đây
- Lấy sông suối, địa thế khoáng đãng để đặt hướng nhà;
- Lấy thế đất chạy theo ven núi để đặt hướng, đặt biệt là đặt
hướng nhà.
Cộng đồng người Thái cư trú ở nhiều nơi khác nhau, để phân
biệt rõ về nơi "chôn nhau cắt rốn", họ đặt cho bản của mình một cái
tên gọi riêng, có thể lấy tên con sông, suối, rừng, rú,...là tên cho bản.
Về kiến trúc nhà ở:
Người Thái chủ yếu là ở trong nhà sàn. Đây là loại nhà được
người Thái kiến thiết bằng những chất liệu từ thiên nhiên, gần gũi với
nơi họ sinh sống.
Ở Nghệ An có 4 dạng nhà sàn chủ yếu gắn liền với sự phát
triển từ thấp lên cao của đồng bào Thái: Dạng cổ truyền gọi là nhà có đà; Dạng
thứ hai gọi là nhà quá giang cột chôn; Dạng thứ ba là nhà kê hai hàng cột
có quá giang; Dạng thứ tư là nhà kê hạ.
Các dạng nhà sàn ở Nghệ An về hình thức bên ngoài có đôi
chút khác nhau, nhưng về cấu trúc cơ bản là giống nhau, gồm 12 phần chính là:
1. "Xau hóng" là cột chính của nhà. Khi xây cất một ngôi nhà việc đầu
tiên là phải dựng được "Xau hóng"; 2. Xau khăn (cột hồn) là cột dùng
để thờ khi vợ chết. Đây là cột đối xứng với Xau hóng; 3. Đay (cầu thang); 4. Cỏi-sàn
hiên đầu hồi có càu cầu thang chính; 5. Tu cơi (cửa chính để vào trong nhà); 6.
Gian hóng (gian nọc-ngoài); 7. Xuôn (buồng ngũ); 8. Bỏn non (Giường nằm của vợ
chồng gia chủ); 9. Tảu phi (bếp); 10. Tu xan (cửa ra vào bếp); 11. Xan nọc (xà
phơi); 12. Đây xan (cầu thang dầu hồi thường gác lên xà phơi).
Về trang (sắc) phục:
Người Thái có truyền thống dệt vải lâu đời. Giới nam của
dân tộc Thái mang trang phục rất đơn giản, ít giữ bản sắc (cả về trang phục lẫn
trang sức). Đặc biệt, ngày nay với sự thâm nhập của người Kinh, thì nam giới
Thái đã mang trang phục như miền xuôi. Sắc phục của nữ giới ở Nghệ An có thể
phân thành hai kiểu Thái-Tày Mường (trắng) và Tày Thanh (Đen). Phụ nữ thái ở
Nghệ An chủ yếu mặc váy (Xỉn).
Nhóm Tày Mường thường mặc "Xỉn đán", còn nhóm Tày
Thanh thường mặc "Xỉn múc".
Ngoài sắc phục che thân ra, người Thái còn rất "giàu có" về trang sức. Phần lớn trang sức được làm bằng bạc trắng và bằng vải.
Ngoài sắc phục che thân ra, người Thái còn rất "giàu có" về trang sức. Phần lớn trang sức được làm bằng bạc trắng và bằng vải.
Nhìn chung, trang phục của người Thái ở Nghệ An gọn gàng, đẹp.
Phụ nữ xính trang sức đã làm tăng thêm nét duyên dáng và tươi đẹp của họ. Việc
mặc váy đã tôn lên được thân hình mảnh giẻ, điệu đà của họ, nhân lên phong cách
Á Đông của người phụ nữ Việt Nam.
Về ẩm thực: Có hai loại:
Về ẩm thực: Có hai loại:
Món ăn truyền thống của người Thái là Xôi. Người Thái nổi
tiếng với "Cơm lam" (xôi nhồi ống nứa).
Thức ăn của người Thái rất tự nhiên nhưng lại rất
phong phú và giàu vitamin, đạm. Sông, suối, khe, rạch trở thành nguồn cung cấp
tôm, cua, cá, ốc, ếch,.. đầy chất dinh dưỡng; Thảm thực vật, đồi núi là nguồn
cung cấp rau sạch, măng, nấm, rêu,... nhiều vitamin.
Thức uống của người Thái ngày xưa không đảm bảo vệ sinh vì
họ thường uống nước sống ở sông, suối nhưng ngày nay, nhờ ánh sáng của người
Kinh họ đã uống chín.
Người Thái ở Nghệ An rất thích uống rượu. Đối với họ uống rựu
là phong tục cho nên họ tự chế biến lấy để tiêu thụ. Rượu của người Thái có ba
loại chính: Lảu xiêu (cất hay trắng), Lảu xả (Rượu cần), Lảu vang (rượu nếp
cái).
Người Thái xem rượu là cái cớ để cởi mở niềm vui, sự hân
hoan mang tính văn hóa lành mạnh, không bê tha. Với người Thái, rượu cần là thức
men thú vị mỗi khi có đình đám.
Sinh hoạt ẩm thực của người Thái có cung cách giờ giấc nhất định. "Kín lảu mi ngan, đa pan mi pựa", tức là ăn có bữa, rượu có giờ. Người Thái chia làm 5 bữa/ngày.
Sinh hoạt ẩm thực của người Thái có cung cách giờ giấc nhất định. "Kín lảu mi ngan, đa pan mi pựa", tức là ăn có bữa, rượu có giờ. Người Thái chia làm 5 bữa/ngày.
Thứ hai là, lĩnh vực văn hóa tinh thần:
Là cư dân sinh tụ lâu đời với truyền thống nông nghiệp, từ
rất lâu người Thái ở Nghệ An có một đời sống tâm linh cộng đồng. Tín ngưỡng dân
gian của người Thái là biểu hiện nhận thức, tâm lý, tình cảm của họ về các hiện
tượng xung quanh tự nhiên và xã hội:
Quan niệm về vũ trụ: Theo người Thái ở Nghệ An, vũ trụ chia
làm ba phần:
Thứ nhất là, Mường Phạ (Mường Phen)- là mường của các vị
then;
Thứ hai là, Mường Lùm(Mường người)
Thứ ba là, Mường Boọc Đai (Mường trong lòng đất):
Quan niệm về "Phi":
Nếu đời sống tâm linh của con người là nhằm hướng đến một đấng
siêu nhiên, toàn năng. Với người Thái, siêu nhiên, toàn năng đó được gọi là
"Phi".
Theo quan niệm của người Thái, "Phi" bao gồm:
- Linh hồn người sống (Phi vẳn);
- Linh hồn người chết (Phi hương);
- Tổ sư nghề mo (Phi ôn, phi một);
- Các loại ma quỷ trong tự nhiên (Phi Pu, Phi pả).
Với họ, tất cả đều được thần thánh hóa thành những mãnh lực
siêu nhiên.
Quan niệm về xây dựng nhà:
Người Thái coi ngôi nhà là nơi linh thiêng, ăn đời ở kiếp của
mình. Vì vậy, mỗi khi dựng nhà người Thái phải nhờ thầy cúng đến xem hộ.
Dựng nhà xong, người Thái có làm lễ lên nhà mới. Đây là tập
quán của họ.
Tập quán sinh đẻ:
Người Thái, quan niệm rất duy linh về con người. Họ cho rằng,
con cái được sinh ra là quà ban thưởng của trời đất cho họ. Mỗi khi có đứa trẻ
được sinh ra họ gửi gắm rất nhiều niềm tin vào nó, vì vậy trước khi sinh người
phụ nữ mang thai được quan tâm chăm sóc một cách chu đáo.
Tang ma:
Tang ma:
Nếu như tôn giáo quan niệm chết là được sống ở một thế
giới khác. Dân tộc Thái ở Nghệ An cũng quan niệm như vậy, nhưng với họ, cuộc sống
ở vùng đất mới là cuộc sống của mường ma. Vì muốn được sống ở một vùng đất mới
với kiếp ma hạnh phúc nên người Thái rất coi trọng việc tang ma mỗi khi có người
qua đời.
Cưới hỏi:
Truyền thống dân tộc Thái chỉ ra rằng, khi con gái biết dệt
vải, con trai biết đan chài là lúc đến tuổi cặp kè. Chuyện gái có trai là chuyện
bình thường như "trăng có sao". Mỗi khi có đôi trai gái nên
duyên vợ chồng không chỉ là niềm vui của gia đình, dòng họ mà đó còn là niềm
vui lớn của cả bản, vì chính những cặp vợ chồng này sẽ là tương lại xum quần,
cường thịnh của bản làng. Cưới hỏi của người Thái trải qua nhiều khâu như: Chóm
(dạm hỏi), Dăm (Thăm), Lễ cưới. Và mỗi một khâu đoạn như vậy có nhiều cung bậc
nghi lễ.
Lễ cơm mới:
Đây là lễ sau khi đã thu hoạch vụ mùa vào tháng mười (dương
lịch) nhằm tạ ơn sự phù hộ độ trì của tổ tiên đã cho mùa màng tốt tươi. Lễ
này không linh đình vì tuỳ thuộc vào hoàn cảnh của từng gia đình mà làm nhưng vẫn
phải mời thầy mo đến cúng vía.
Lễ hội Xăng Khan:
Là lễ hội đền ơn đáp nghĩa mang tính chất tín ngưỡng dân
gian, cầu mong cho "người an, vật thịnh", dân bản, mường ai cũng được
ấm no hạnh phúc. Đây là một sinh hoạt tín ngưỡng dân gian rất độc đáo, bản sắc,
trở thành truyền thống của dân tộc Thái, được diễn ra vào cuối mùa đông, đầu
mùa xuân khi ngô trên nương đã hái hết về nhà, lúa ngoài đồng đã gùi về bản.
Văn học:
"Người Thái có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú và đặc sắc. Từ Tây Bắc vào Nghệ An và cùng đi với họ là cả kho tàng văn hóa của một tộc người có lịch sử hàng ngàn năm sinh tụ ổn định trên một địa bàn tương đối rộng. Đó là chưa kể dọc đường hành trình của họ, họ đã từng gặp gỡ tiếp xúc các cư dân Việt-Mường, những cư dân Môn-Khơme, cư dân Lào...làm cho vốn văn nghệ dân gian Thái mang thêm nhiều màu sắc của nhiều dân tộc" [46, tr.66]. Về cơ bản, văn học Thái được thể hiện qua các lĩnh vực như: Các câu truyện thần thoại, các câu truyện cổ tích, truyện thơ.
Văn học:
"Người Thái có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú và đặc sắc. Từ Tây Bắc vào Nghệ An và cùng đi với họ là cả kho tàng văn hóa của một tộc người có lịch sử hàng ngàn năm sinh tụ ổn định trên một địa bàn tương đối rộng. Đó là chưa kể dọc đường hành trình của họ, họ đã từng gặp gỡ tiếp xúc các cư dân Việt-Mường, những cư dân Môn-Khơme, cư dân Lào...làm cho vốn văn nghệ dân gian Thái mang thêm nhiều màu sắc của nhiều dân tộc" [46, tr.66]. Về cơ bản, văn học Thái được thể hiện qua các lĩnh vực như: Các câu truyện thần thoại, các câu truyện cổ tích, truyện thơ.
Nghệ Thuật: Bao gồm nhiều lĩnh vực như:
- Âm nhạc: Với nhiều loại hình nhạc cụ như: Khèn, Sáo, Cồng
Chiêng và Khắc Luông.
- Múa (xẽ, xoè) với hai cấp độ là: Múa tập thể dân dã và
múa biểu diễn hay múa phong cách.
- Về hoạ tiết trang trí:
Người Thái có thể trang trí trên rất nhiều chất liệu của tự
nhiên, chẳng hạn như: Gỗ, mây, tre, giang, vải...
Nói chung hoạ tiết của người Thái rất bản sắc. Chính những
hoạ tiết của họ đã góp phần không nhỏ vào bức tranh sinh động của đời sống. Nhờ
một phần của nghệ thuật mà bản sắc văn hóa của dân tộc Thái đã trở nên độc đáo
và sâu sắc hơn. Nội dung của nghệ thuật chính là sự biểu hiện tâm hồn, tình cảm,
ước mơ, niềm tin và cả sức sống mãnh liệt của người Thái./
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét