Ngôi nhà ở truyền thống các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc – Một dạng kiến trúc xanh Việt Nam

Từ các miền quê Việt – không ai quên được những ngôi nhà ở cổ truyền của ông cha với mái tranh rạ, dừa, cọ, cột kèo: gỗ, tre; phên liếp, nứa, đất; cửa đi, cửa sổ thoáng với những tấm dại che nắng linh hoạt, khi di chuyển hoặc hỏng thì ngôi nhà hầu như không để lại dấu tích vì mọi vật liệu làm nhà đều từ thiên nhiên nên lại trở về hòa nhập với đất. Tại chỗ ngôi nhà đó xây một ngôi nhà mới hoàn toàn, hoặc chuyển thành vườn, ruộng, nghĩa là không để lại vùng đất không ô nhiễm nào cả. Đó chính là một dạng "kiến trúc xanh".

Ngôi nhà đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay vẫn còn giữ lại được rất nhiều những yếu tố "xanh" đó, xin góp một vài phân tích khía cạnh "xanh" của kiến trúc ở truyền thống từ những ngôi nhà đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc.

1. Hiểu về kiến trúc xanh:
1.1. Khái lược chung:
Trên thế giới có nhiều định nghĩa "kiến trúc xanh" của các tổ chức và cá nhân khác nhau. Theo Briand Edwards thì kiến trúc xanh được tổ hợp từ 3 yếu tố năng lượng – môi trường – sinh thái. Theo các giáo sư trường Đại học NWS Australia thì kiến trúc xanh là kiến trúc hướng tới thải khí các bon bằng không. Theo hệ thống quy chuẩn của Đài Loan thì kiến trúc xanh gồm 9 tiêu chí, nhưng thực chất cũng gồm 4 tiêu chí cơ bản: tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm nước, thân thiện môi trường và ít ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Ở Việt Nam, khái niệm kiến trúc xanh thực ra là một vấn đề không mới nhưng vẫn còn nhiều cách nhìn nhận khác nhau và quan trọng hơn là chưa hình thành được một hệ thống quy phạm, một chế tài bắt buộc phải tuân thủ khi thiết kế xây dựng công trình mà mới dừng ở mức luận đàm, cảnh tỉnh, kêu gọi. Trong thực tế chưa có một công trình nào được thiết kế xây dựng thực sự "xanh".

1.2. Đề xuất các tiêu chí kiến trúc xanh Việt Nam:

Hình 1: Mô hình kiến trúc xanh

- Dùng vật liệu tự nhiên tái sinh, vật liệu công nghiệp tiêu hao năng lượng sản xuất thấp.
- Tiết kiệm năng lượng, sử dụng nhiều năng lượng tái tạo.
- Tiết kiệm nước và sử dụng nhiều nước tái tạo.
- Đảm bảo sức khỏe và tiện nghi sống con người tốt hơn.
- Giảm thiểu phát thảI khí các bon.
- ít chất thải, chất thải có khả năng tái sinh.
- Giảm thiểu ảnh hưởng sinh thái tự nhiên.

2. Ngôi nhà ở truyền thống các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, một dạng kiến trúc xanh Việt Nam.
2.1. Sử dụng vật liệu:
Đa số ngôi nhà các dân tộc hiện nay đều sử dụng vật liệu có nguồn gốc hữu cơ từ tự nhiên. Trước đây, ta thường chỉ đề cập đến khía cạnh tiêu cực khi vật liệu xây dựng ngôi nhà của các dân tộc thiểu số gây ra nạn chặt phá, khai thác rừng bừa bãi, san ủi làm biến dạng thiên nhiên. Nhưng qua thống kê thực tế, trên 80% làm tàn phá biến dạng này là do người Kinh. Còn với ngôi nhà dân tộc, khi chưa có các định hướng bảo vệ tài nguyên rừng thì có xảy ra điều này. Còn hiện nay nhiều dân tộc như Tày, Thái, Mường, Nùng, Dao... thì ngay hệ thống rường cột chính của ngôi nhà đều được xây dựng từ chính cây tự trồng trong vườn của họ theo một cách làm rất nhân văn là sinh con – trồng cây; con lớn – cây lớn làm nhà cho con. Với sự lựa chọn loại cây trồng hợp lý có vòng đời sinh trưởng ngắn, loài cây chỉ khoảng 7-10 năm là có thể khai thác làm rường cột nhà. Các vật liệu bao che lợp thì chọn những loại cây vòng đời sinh trưởng còn ngắn hơn (2-3 năm) để khai thác. Vì vậy, thực tế sự ảnh hưởng đến phá hoại môi trường của xây dựng ngôi nhà là rất thấp. N↓gôi nhà này, khi bị dỡ bỏ, chuyển đổi thì các vật liệu cấu kiện đều tái sử dụng được và để lại đất sạch.


Hình 2: Ngôi nhà dân tộc Hà Nhì, dân tộc Mường trong sử dụng vật liệu tự nhiên, tái tạo.

2.2. Tiết kiệm năng lượng và sử dụng năng lượng tái tạo:
Đa số ngôi nhà dân tộc nằm giữa đại ngàn lộng thoáng có những giải pháp khai thác nguồn năng lượng tự nhiên một cách tự nhiên đó là chiếu sáng bằng ánh sáng tự nhiên qua hệ cửa mở hợp lý, thắp sáng từ các loại dầu thực vật, bếp lửa được đốt bằng các loại cây, lá rừng khô vừa lấy ánh sáng, vừa sưởi ấm, vừa đun nấu thức ăn. Việc làm mát trong mùa hè được khai thác tối đa bằng hệ thống cửa đón gió và thoát gió hợp lý, ngôi nhà còn được chống ẩm, mốc vệ sinh, tiệt trùng bằng biện pháp nâng sàn ở lên cao so với mặt đất tạo luồng không khí đối lưu bên dưới. Vào mùa đông những hệ thống cửa sập kín kết hợp với làm nóng không khí trong nhà bằng bếp lửa (thường đặt chính giữa nhà) rất hiệu quả và tiết kiệm. Ngoài ra, mỗi ngôi nhà thường có vườn xanh, tận dụng xanh của đại ngàn để làm mát tự nhiên cho mùa hè, che chắn gió bão và tạo ấm cho mùa đông. Vườn ao chuồng hợp lý và rất thích ứng, tiết kiệm năng lượng kinh tế để phục vụ đời sống của người dân. Hệ thống điện công nghiệp hiện đại về các thôn bản nhưng đa số người dân vẫn sống với thói quen cổ truyền hầu như chỉ sử dụng điện trong những trường hợp bắt buộc như xem tivi, nghe đài. Nếu có một chính sách điện mặt trời tốt bài toán tiết kiệm năng lượng, sử dụng năng lượng tái tạo sẽ khép kín trọn vẹn.
2.3. Sử dụng nguồn nước và xử lý nguồn nước:
Các dân tộc miền núi phía Bắc xem nguồn nước là một trong ba yếu tố chính để chọn nơi định cư. Do đó việc sử dụng hợp lý nguồn nước tự nhiên hoặc khai thác tại chỗ trong sinh hoạt hàng ngày đã trở thành một nét đặc sắc. Nguồn nước được sử dụng với hai chức năng chính phục vụ sản xuất và phục vụ đời sống. Sử dụng nước thành một vòng tuần hoàn khép kín. Nước lấy từ suối → sử dụng sinh hoạt → thấm vào đất → tự lọc → thấm trở lại suối...
Do thường phải dùng gùi, ống để lấy nước do đó yếu tố tiết kiệm đã trở thành bản năng của người dân tộc – qua khảo sát thực tế cho thấy lượng nước mà người dân sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày chỉ bằng 25-30% người Kinh. Bệnh từ vệ sinh môi trường kém do nhiễm bẩn nguồn nước trước đây người dân tộc cao hơn, hiện nay cũng đã khắc phục cơ bản. Hình thức tắm suối, rồi suối tự làm sạch cũng là một nét độc đáo trong sử dụng nước tái tạo tuần hoàn.
Một số dân tộc tận dụng sức nước để sinh sống, sản xuất như làm cối giã gạo, guồng quay. Một số nơi lợi dụng địa hình dốc dẫn nước từ sông suối về tận nhà, tận nương để sử dụng như người Pà Thẻn, Mường...
Sử dụng nước mưa trong sinh hoạt cũng là một truyền thống lâu đời, nguồn nước mưa được thu từ mái nhà bằng máng chảy vào các chum vại, sau đó được lắng lọc bằng các lớp cát sỏi tự nhiên rồi đưa vào sử dụng ăn uống hàng ngày.

Lợi dụng địa hình dốc tự nhiên đưa nước tự chảy về tận nhà để sử dụng của người PàThẻn.

Đào giếng lấy nước sinh hoạt hàng ngày của cộng đồng người Dao.

Dùng guồng đưa nước về ruộng và về làng để phục vụ sản xuất, sinh hoạt của người Tày.

2.4. Đảm bảo sức khỏe và tiện nghi sống:
Những ngôi nhà truyền thống của các dân tộc trong thực tế đã tạo ra được một tiện nghi sống khá tốt cho người dân. Nếu lấy theo yêu cầu cao cấp của người Kinh để so sánh thì rất vô cùng. Nhưng chính cách sống giản dị và thiết thực của người dân tộc cũng là một cách sống xanh. Ví như một hộ gia đình dân tộc 4-6 khẩu, chỉ cần sống trong một không gian có diện tích 50-60m2 là đủ thoải mái (tức là bình quân khoảng 10m2/1 người). Vì cách sử dụng cơ động, đa dạng, linh hoạt không gian, mà hiện nay chúng ta đang nghiên cứu trở lại cho ngôi nhà miền xuôi của mình. Cách sống này còn giữ nét văn hóa Việt quan trọng là sự gần gũi, ấm áp giao hòa tình cảm giữa các thành viên trong gia đình.
Ngôi nhà thoáng rộng gần gũi, hoang dã như thiên nhiên – con người sống ở đó không bị hiệu ứng nhà kính, bụi công nghiệp, tiếng ồn đô thị, giao thông, không bị tổn hao sức khỏe vì hóa chất từ các vật dụng trong nhà, không bị xanh xao và dị ứng thời tiết như sống trong môi trường điều hòa nhiệt độ. Những mảng xanh của vườn, rừng thực sự là nguồn cấp khi sạch vô tận và thu khí các bon hữu dụng nhất. Về tinh thần, kiến trúc "mở cửa" phóng khoáng với cộng đồng của ngôi nhà dân tộc thực sự là một điều để chúng ta suy ngẫm.

Từ trái sang: Nhà của người Mường – Nhà của người Thái


Giới thiệu mặt bằng và bên trong ngôi nhà Mường, Thái để thấy cách giải quyết giản dị đảm bảo tiện nghi sống và sức khỏe của người ở và cộng đồng.

2.5. Giảm thiểu phát thải các bon:
Ngôi nhà truyền thống dân tộc với cách xây dựng, và khai thác hoàn toàn tự nhiên nên "Khó tìm ra một nguồn phát thải khí các bon thực sự". Có thể nói về cơ bản thải các bon ở đây xem như không có, vì một vài nguồn thải sinh hoạt như đốt lửa, rác thải thì đã được xử lý nhờ có nhiều cây xanh vừa cấp sạch và hút bẩn song hành. Nguồn thải các bon lớn là sản xuất vật liệu, quá trình xây dựng và sử dụng năng lượng công nghiệp cho ngôi nhà thì rõ ràng vấn đề này với các ngôi nhà dân tộc gần như không có, vì vật liệu từ tự nhiên, thi công thủ công, vận hành thiếu nhiều . Về vật liệu để làm nhà hiện nay có một số ngôi nhà dân tộc biến dạng do bắt đầu sử dụng vật liệu công nghiệp tuy nhiên nếu hướng trở lại giải pháp cổ truyền sẽ xử lý triệt để được đó là gỗ làm khung sườn khai thác từ vườn nhà, hoặc vùng rừng được phép khai thác theo chu kỳ, các vật liệu lợp mái, làm tường chủ yếu từ đất không nung, các loại rơm rạ, lá rừng cho phép khai thác. Quá trình xây dựng được làm bằng thủ công, không sử dụng máy móc.
+ Không sử dụng vật liệu, thiết bị công nghệ phát thải khí các bon.
- Khung cột dầm, sàn từ gỗ xoan.
- Xà gồ, vì kèo sườn máI từ tre, gỗ tạp.
- Mái lợp bằng rơm rạ, mây, cọ.
- Tường, vách cửa sổ, cửa đI, từ tre nứa.
- Thông thoáng, chiếu sáng tự nhiên.
- Xây dựng hoàn toàn thủ công.

Mô tả ngôi nhà dân tộc Sán chay với vật liệu xây dựng hoàn toàn tự nhiên, xây dựng hoàn toàn thủ công, sử dụng vận hành không có bóng dáng của các công nghệ thải khí các bon.

2.6. Chất thải:
Khác với lối sống phồn hoa đô thị mỗi ngày trung bình mỗi người thải ra khoảng 2kg rác thải các loại – người dân tộc với lối sống giản dị trong ngôi nhà bình hòa với thiên nhiên lượng rác thải ra chưa bằng 40% của người Kinh. Rác thải từ ngôi nhà dân tộc cũng ít các chất vô cơ khó phân hủy, do lối sống của người dân tộc sử dụng hầu hết các vật dụng đều từ nguồn gốc tự nhiên. Trước đây rác thải còn quăng vất bừa bãi gây nhiều ô nhiễm môi trường. Đến nay khi có các hướng dẫn khoa học các rác thải này phần lớn được chôn lấp, tái chế nhờ sử dụng hệ thống Bioga, các hệ thống ủ, chôn mủn để làm phân bón cho cây trồng, nuôi cá...
2.7. Ảnh hưởng sinh thái tự nhiên:
Có thời kỳ ngôi nhà dân tộc khi xây dựng đã làm ảnh hưởng lớn đến sinh thái tự nhiên do khai thác rừng bừa bãi, đốt nương làm rẫy, đào bạt đồi núi. Tuy nhiên việc ảnh hưởng tới tự nhiên của ngôi nhà người dân tộc khi nở rộ nhất trong những năm 80 của thế kỷ trước cũng chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ bằng khoảng 20% – 25% so với người Kinh. Vì khi dựng ngôi nhà của mình họ đã hiểu là phải dựa vào thiên nhiên tại chỗ, khai thác tại chỗ để tồn tại do đó ý thức chọn lọc, thích ứng là rất rõ ràng. Xuất phát truyền thống ngôi nhà dân tộc vốn đã coi trọng bậc nhất yếu tố hòa nhập hữu cơ với thiên nhiên do đó khi có thêm các định hướng mang tính giác ngộ và khoa học họ sẵn sàng thực hiện.
Việc xây dựng những ngôi nhà là của dân tộc hiện nay đã giảm nhiều ảnh hưởng bất lợi đến sinh thái tự nhiên. Ngôi nhà đó thường được đặt một cách khéo léo trên nền đất dốc tự nhiên không san gạt, được xây dựng thành các khuôn viên với hàng rào mềm gắn kết cộng đồng, hệ thống hạ tầng được bố trí khéo léo bám theo địa hình, những khu vườn, rừng được chăm sóc, những ruộng nương được canh tác màu mỡ. Tất cả đã góp phần tôn tạo, gìn giữ sinh thái tự nhiên ở các vùng cư trú của đồng bào tốt, phát triển hài hòa bền vững và sinh lợi nhiều trong việc xây dựng và phát triển từng khu vực cũng như toàn cộng đồng.

Ngôi nhà của người H'mông

Ngôi nhà của người Mường

Nơi cư trú của người H'mông

Nơi cư trú của người Mường

KẾT LUẬN:
Trong sự phát triển của nền kiến trúc nước nhà, chúng ta luôn trăn trở và tìm kiếm bản sắc dân tộc. Kiến trúc xanh của ngôi nhà truyền thống đồng bào dân tộc mà chúng tôi vừa nêu khái quát ở trên phải chăng cũng chính là một bản sắc dân tộc cần giữ gìn phát huy và tiếp biến trong nền kiến trúc Việt Nam. Trong quá trình hội nhập và phát triển bền vững. Chỉ có điều cần phải biết chọn lọc, gọt dũa gìn giữ những cái hợp lý – hay – tốt, loại bỏ những cái lạc hậu chưa tốt, nhất là chú trọng đến điều kiện vệ sinh môi trường và yếu tố xâm hại tài nguyên rừng khi xây dựng và sử dụng những ngôi nhà này.
Những nét đặc sắc xanh đó không chỉ có lợi ích cho việc xây dựng những ngôi nhà, bản làng dân tộc mà nếu được nghiên cứu đầy đủ, bài bản và khoa học sẽ có đóng góp đáng kể cho việc xây dựng nên kiến trúc xanh ngay trong lòng các đô thị Việt Nam, và việc khai thác đó cũng sẽ góp phần cho bản sắc kiến trúc Việt Nam thực sự hình thành rõ nét từ đô thị đến nông thôn trong quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ nhanh chóng.
Ths.KTS Phan Đăng Sơn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét