Vùng
Tây Bắc gồm các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình, Lào Cai, Yên Bái và
miền núi Thanh Nghệ. Về mặt địa lý, có thể nói, Tây Bắc là vùng có quá trình kiến
tạo khá phức tạp và là vùng núi cao hiểm trở nhất Việt Nam. Nói một cách chung
nhất, đây là “miền đất của những núi cao và cao nguyên “(Lê Bá Thảo),
là một khối
liền mạch núi sông kéo dài từ Vân Nam (Trung Quốc) được cấu tạo theo hướng Tây
Bắc-Đông Nam song song với thung lũng sông Hồng. Từ Đông sang Tây được đánh dấu
bởi dãy núi cao Hoàng Liên Sơn dài 180 km có đỉnh Phan Xi Păng cao nhất Việt
Nam. Xen giữa dãy Hoàng Liên và dải cao nguyên phía Tây là các vùng bồn địa.
Vắt
dọc Tây Bắc là sông Đà, từng được Nguyễn Tuân ví như “sống lá khi coi Tây Bắc
là chiếc lá, có tiềm năng lớn về nhiều mặt, góp phần tạo dựng bức tranh Tây Bắc
hùng vĩ với nhiều kỳ quan, gắn liền với lịch sử tụ cư của nhiều tộc người ở khu
vực này. Tuy nhiên thiên nhiên vùng Tây Bắc khá đa dạng với nhiều tiểu vùng với
các đặc trưng về địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu, thủy văn... Khí hậu ở vùng này
mang tính lục địa rõ hơn vùng Đông bắc và trong năm xuất hiện những hiện tượng
thiên nhiên cực đoan, lạnh có tuyết, sương mù vào mùa Đông và hiện tượng “phơn”
mùa hạ làm nhiệt độ có khi lên trên 40oC. Biên độ nhiệt độ trong ngày khá lớn.
Nhiều nơi có cả 4 mùa trong ngày như vùng cao nguyên Mộc Châu. Theo các nhà địa
lý học, Tây Bắc không chỉ giàu có về nguồn tài nguyên trên mặt đất như đất đai,
rừng và thảm thực vật, động vật… mà còn giàu có nguồn tài nguyên dưới lòng đất
mà trong đó có nhiều tài nguyên chưa được phát hiện, nhất là ở vùng sâu, vùng
xa, vùng hiểm trở đi lại khó khăn.
Trên
đại thể, Tây Bắc hình thành 3 vùng cảnh quan rõ rệt . Đó là vùng thung lũng
lòng chảo thấp, nơi cư trú của các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Việt-Mường,
Thái-Kađai; vùng giữa hay các sườn núi là nơi sinh sống của các tộc người thuộc
nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer và vùng cao hay rẻo núi cao là nơi cư trú của các tộc
người thuộc nhóm ngôn ngữ Mông-Dao, Tạng Miến. Chính các vùng cảnh quan trên đã
hình thành nên những truyền thống của các tộc người trong quá trình thích ứng với
môi trường, sinh tồn và phát triển có nhiều nét đặc thù về văn hoá ở khu vực
này.
Quá
trình hình thành tộc người ở Tây Bắc Việt Nam khá phức tạp và đa dạng. Theo những
kết quả nghiên cứu hiện nay, trên lãnh thổ Tây Bắc đã tìm thấy đấu vết của con
người từ thời nguyên thủy trong các di chỉ hậu kỳ đồ đá cũ . Trong bức tranh về
thành phần cư dân hiện nay có thể phân thành 3 lớp (ngoài người Mường trong
nhóm ngôn ngữ Việt Mường): lớp thứ nhất là các cư dân Môn-Khơme, cư trú trên một
khu vực rộng lớn từ bắc Việt Nam và Lào; lớp thứ 2 là các tộc người thuộc ngữ hệ
Thái-Kađai, trong đó nhóm Kađai có mặt sớm hơn các nhóm Thái (trừ nhóm Táy khao
có mối liên hệ với khối cư dân Tay cổ); lớp thứ 3 là nhóm cư dân Dao-Tạng Miến
và trong những thế kỷ gần đây là người Mông, người Việt.
Trên
đại thể về phân bố cư dân và các vùng cảnh quan có thể thấy ở vùng thung lũng
lòng chảo thấp hay vùng bồn địa giữa núi, trước núi là nơi sinh sống của các cư
dân Thái, Mường, Lào, Lự, trong đó người Mường chủ yếu cư trú ở vùng phía Nam của
Tây Bắc. Vùng rẻo giữa hay vùng sườn núi là nơi cư trú của các tộc người nói
ngôn ngữ Môn-Khmer như Khơ Mú, Mảng, Kháng, Xinh Mun. Vùng rẻo cao là nơi cư
trú của các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Mông-Dao, Tạng Miến.
Mặc
dù xu thế chung về cư trú của các tộc người ở Việt Nam là cư trú cài răng lược
nhưng ở Tây Bắc mức độ phân bố cư dân không đều giữa các vùng cảnh quan , đặc
biệt ở vùng rẻo cao, rẻo giữa. Điều này liên quan đến quá trình tộc người (di
cư từ bên ngoài tới, các cuộc xung đột tộc người liên quan đến nơi cư trú...) cũng
như tập quán mưu sinh của các tộc người quy định. Do những đặc thù về môi trường
cư trú và lịch sử tộc người, mặc dù đều có đặc điểm chung của khu vực miền núi
phía Bắc nhưng mỗi vùng và mỗi tộc người đều có những đặc điểm nhất định. Dưới
đây chúng tôi xin trình bày về các đặc điểm kinh tế-văn hóa-xã hội theo vùng cảnh
quan.
Trước
hết là vùng thung lũng. Qua nghiên cứu về mô hình văn hóa thung lũng chúng tôi
tạm gọi đây là văn hóa bản mường. Mô hình này chỉ có ở khu vực miền núi phía Bắc,
chủ yếu ở các tộc người Mường, Thái, Tày hay Tày-Nùng. Thung lũng được hình
thành do các vận động kiến tạo lọt giữa vùng núi cao với nhiều sông suối. Đây
là khu vực thuận lợi nhất cho việc canh tác lúa nước ở vùng miền núi. Bởi thế đặc
trưng của hoạt động kinh tế thung lũng là ruộng nước với một hệ phức hợp về kỹ
thuật, khác với kỹ thuật canh tác lúa nước ở vùng đồng bằng. Gắn liền với canh
tác ruộng nước, hệ thống thủy lợi vùng thung lũng khá đặc sắc. Người ta hay nói
đến hệ thống mương phai, lái, lin ở người Thái hay đập, mương và hệ thống dẫn
nước ở người Mường. Tuy nhiên hệ canh tác này không chỉ có ruộng mà còn có
nương, góp phần đa dạng hóa hệ canh tác. Bên cạnh đó, cư dân còn tiến hành các
hoạt động chăn nuôi, sản xuất thủ công nghiệp, săn bắt, nuôi và đánh cá, thu nhặt
lâm thổ sản... Trong khuôn khổ địa hình vùng thung lũng, cư dân tập hợp lại
thành bản và các bản trong khuôn khổ vùng thung lũng tập hợp thành mường với một
thiết chế chặt chẽ. Trước đây, trong khu vực Mường chủ yếu thuần một tộc người
còn về sau này một bộ phận các tộc người khác nhập cư nhưng cư dân Thái hoặc Mường
vẫn là chủ yếu. Trong tiến trình phát triển, trên cơ sở khai phá vùng thung
lũng của cư dân đã hình thành nên cánh đồng lớn, các mường lớn, ví như ở người
Thái có nhất Thanh, nhì Lò, tam Tấc, tứ Than; người Mường có nhất Bi, nhì Vang,
tam Thàng, tứ Động. Trong trường hợp này các mường đồng nghĩa với các cánh đồng,
các thung lũng và đương nhiên liên quan đến vai trò của các thủ lĩnh trong
vùng. Chính đặc điểm này đã tạo nên những đặc trưng trong văn hóa của các tộc
người trên các lĩnh vực vật thể và phi vật thể. Người Mường đã tổng kết về các
đặc trưng của văn hóa thung lũng: trâu đeo mõ, chó leo thang, củ mài, rau sắng,
măng đắng, mật ong, cơm đồ nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày lui, tháng tới.
Tuy
nhiên cùng với ruộng, cư dân vùng thung lũng còn có các hoạt động trên nương rẫy
và khai thác các nguồn lợi từ rừng khá đa dạng và phong phú và làm phong phú
thêm đời sống vật chất cũng như tinh thần.
Đối
với cư dân ở vùng rẻo giữa (chủ yếu là cư dân Môn-Khmer) hoạt động kinh tế chủ
yếu là nương rẫy thấp. Trong lịch sử họ đã được ghi nhận là những cư dân biết
làm ruộng nước từ khá sớm nhưng do các đặc điểm lịch sử họ buộc phải chuyển
sang hoạt động kinh tế nương rẫy là chính. Mặc dù các cư dân này đã có không ít
kinh nghiệm trong việc khai thác nương rẫy mà điển hình là phương thức phát, đốt,
chọc lỗ, tra hạt nhưng do năng suất nương rẫy thấp nên đời sống của họ thường
thấp kém, hiện tượng du canh du cư khá phổ biến. Người Thái đã tổng kết: Thái
ăn theo nước, Xá ăn theo lửa chính là phản ảnh đặc điểm canh tác của 2 nhóm tộc
người này ở vùng rẻo cao, mặc dù điều kiện tự nhiên có không ít khó khăn trong
sản xuất nông nghiệp, nhưng cư dân rẻo cao (Mông Dao, Tạng Miến) đã sáng tạo
nên các hình thức kỹ thuật canh tác rất đa dạng, kết hợp canh tác khô và cạn. Đồng
bào đã tạo nên hệ thống ruộng bậc thang khá kỳ vĩ trong điều kiện của vùng núi
cao.
Trong
bức tranh chung về các tộc người vùng Tây Bắc, các sắc thái văn hóa khá đa dạng.
Có thể thấy rõ điều này trên các khía cạnh về nhà cửa, trang phục, ẩm thực; các
biểu hiện về quan hệ gia đình và cộng đồng; các hình thức tổ chức xã hội...
Tuy
vậy, sự giao thoa văn hóa giữa các tộc người diễn ra khá mạnh mẽ. Có thể thấy
rõ điều này thông qua ngôn ngữ; các hoạt động kinh tế... Không phải ngẫu nhiên
mà ngôn ngữ của một bộ phận cư dân Môn-Khmer đã chịu ảnh hưởng đậm ngôn ngữ Thái.
Điển hình là người Xinh Mun, La Ha…Khi nói đến văn hóa các dân tộc vùng Tây Bắc
có thể thấy một hệ giá trị trong bức tranh văn hóa vùng và tộc người. Đó là:
Sự gắn
bó của đồng bào về quê hương xứ sở, Tổ quốc đã trở thành truyền thống trong quá
trình bảo vệ và dựng xây đất nước. Lao động cần cù, sáng tạo, tính cộng đồng
cao. Đời sống kinh tế-văn hóa-xã hội gắn bó và hòa đồng với thiên nhiên, các
ngành nghề thủ công tinh xảo, phản ánh sáng tạo văn hóa của mỗi tộc người. Kho
tàng tri thức dân gian phong phú được đúc kết qua nhiều thế hệ liên quan đến
các hoạt động sản xuất, làm ăn, bảo vệ môi trường thực sự là tài sản quý giá
trong hành trang của mỗi tộc người, làm nên bản sắc tộc người. Sự gắn bó của mỗi
thành viên trong đời sống gia đình và cộng đồng đã tạo nên sự cố kết đậm nét
trong đời sống. Tính tự hào dân tộc, tính tự trọng cao; con người trung thực, cầu
thị, tin người, mến khách. Văn hóa dân gian phong phú đa dạng, giàu bản sắc.
Văn hóa mang đặc trưng vùng miền rõ nét; sự giao lưu văn hóa giữa các tộc người
diễn ra mạnh mẽ, tăng cường sự hiểu biết gắn bó giữa các tộc người trong vùng
và trong khu vực.
Có
thể nêu lên nhiều giá trị văn hóa khác nữa. Điều chúng tôi muốn khẳng định ở
đây là Văn hóa các tộc người vùng Tây Bắc khá phong phú và đa dạng, giàu bản sắc,
gắn liền với quá trình tụ cư lâu đời của cư dân từ nhiều nguồn và nhiều thời điểm
khác nhau. Chính vì vậy trong chiến lược phát triển vùng cũng như tiểu vùng, điều
có ý nghĩa sống còn là giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa truyền thống và hiện
đại, truyền thống và đổi mới tại khu vực này. Có như vậy mới có thể phát triển
bền vững kinh tế xã hội ở vùng đất vốn giàu tiềm năng và có kho tàng văn hóa
phong phú.
PGS.TS Lâm Bá Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét