Kiến trúc nhà sàn truyền thống dân tộc Thái.
Kiến trúc nhà ở truyền thống và việc tổ chức môi trường sống
cộng đồng của các dân tộc trên đất nước Việt Nam là một hệ thống di sản quý
giá. Tuy nhiên kiến trúc nhà ở không phải là một di sản bất biến, một mô hình cứng
mà trái lại nó luôn biến đổi theo thời gian, thích ứng, kế thừa với những biến
đổi của môi trường sống, từ tự nhiên tới xã hội.
Chính những sự biến đổi và kế thừa ấy cũng minh chứng cho
những giá trị của một dòng kiến trúc, của một giá trị văn hóa có sức sống cùng
với thời gian. Giữ gìn và kế thừa kiến trúc nhà sàn dân tộc Thái trong đời sống
đương đại hiện nay được xem không chỉ là trách nhiệm mà còn là việc cần làm nhằm
tạo dựng tính bản sắc vùng miền.
Hiện trạng biến đổi kiến trúc nhà sàn truyền thống dân tộc
Thái
Dân tộc Thái ở Việt Nam khởi nguồn tập trung ở khu vực Mường
Lò (Yên Bái), từ đó phát triển sang các tỉnh Tây Bắc như Điện Biên, Lai Châu
hay vào đến tận miền trung như Thanh Hóa, Nghệ An. Dân tộc Thái là nhóm dân tộc
thiểu số còn lưu giữ đậm bản sắc văn hóa của dân tộc cả về phong tục, ăn mặc, ẩm
thực, trang phục và đặc biệt là kiến trúc nhà, với ngôi nhà sàn có vẻ đẹp về tỷ
lệ, hài hòa với thiên nhiên, thích ứng với khí hậu, cấu trúc gỗ đặc sắc và là
nơi gìn giữ tinh thần truyền thống của người Thái. Người Thái có 2 nhóm tộc
chính là Thái Đen (Táy Đăm) và Thái Trắng (Táy Khao).
Nhà ở truyền thống là dạng nhà sàn, kết cấu gỗ, mái dốc lợp
tranh, nhà có 5-7 gian, sàn cao khoảng 1,3-2,4m Nhà có 2 cầu thang, một cho đàn
ông (7 bậc), một cho phụ nữ ( 9 bậc). Nhà có các chi tiết đặc trưng, tinh tế
như Khau-cút, hoa văn lan can, cửa số. Nhà sàn người Thái Đen có mái đầu hồi
khum khum tạo dáng cho cả tòa nhà như hình con rùa, nhà người Thái Trắng mái đầu
hồi phẳng. Cũng giống như những ngôi nhà truyền thống khác của người Kinh, người
Mường, ngôi nhà truyền thống của người Thái gần đây đang có những biến đổi rõ rệt,
sự biến đổi mang tính quy luật của cuộc sống mới, của môi trường thiên nhiên.
Tuy nhiên bên cạnh sự biến đổi có tính kế thừa và thích ứng hợp lý, có rất nhiều
vấn đề đang đặt ra bởi những xu hướng biến đổi tiêu cực đã rất rõ rệt và là
nguy cơ làm mai một các giá trị di sản truyền thống quý giá.
Nhóm nghiên cứu đã tập trung khảo sát vào một, đang được
khuyến khích phát triển cộng đồng. Đồng thời cũng khảo sát các khu vực bản làng
cũ đã lọt vào nội đô và các bản ven đô của thị xã Nghĩa Lộ.
Qua khảo sát bản Hốc của người Thái (chủ yếu là người Thái
Đen) tại Văn Chấn, Yên Bái - một bản được coi là giàu chất văn hóa truyền thống
nhất của tỉnh, cho thấy những biến đổi rất rõ rệt của nhà truyền thống:
- Xu hướng nâng cao sàn và sử dụng tầng trệt (gầm sàn) với
nhiều chức năng đa dạng hơn: Trước đây tầng trệt thường là thấp (dưới 2,4m) vì
mục tiêu chủ yếu tránh không khí ẩm thấp của miền núi, có hại cho sức khỏe,
không gian chỉ để củi, buộc trâu bò, nông sản. Hiện nay chiều cao sàn đã được
nâng dần, nhất là những ngôi nhà mới dựng 10-15 năm trở lại đây, với chiều cao
2,5-2,7m. Gầm sàn đã được sử dụng như một không gian sinh hoạt chung, tiếp
khách, mắc võng nghỉ, chỗ chơi trẻ em.
Trong điều kiện đô thị hóa, đất nhà ở bị thu hẹp, những
ngôi nhà sàn tại thị xã Nghĩa Lộ, tầng trệt đã được quây lại một số ngăn để làm
bếp, vệ sinh hoặc phòng ngủ, thành chỗ bán hàng và nơi tiếp khách. Cũng do nhu
cầu sử dụng tầng trệt mà sàn gỗ ghép kiểu truyền thống với nhiều khe hở đã thể
hiện nhược điểm là rơi bụi xuống các phòng bên dưới. Vì vậy nhiều nhà đã dùng bạt
nilon chăng dưới sàn gỗ để tránh bụi. Một số khác chuyển sang làm sàn bằng bê
tông đổ toàn khối.
- Xu hướng chuyển kết cấu nhà từ khung cột gỗ sang dùng cột
bê tông là rất rõ rệt. Qua phỏng vấn người dân cho biết giá gỗ để làm cột hiện
nay khá đắt, những loại gỗ như Trắc, Lim khan hiếm, người dân chỉ có thể mua được
những loại gỗ rẻ tiền hơn như dổi, de… thường không bền, nhanh mối mọt. Chính
vì vậy khá nhiều nhà người Thái khu vực Mường Lò, Nghĩa Lộ đã thay cột gỗ bằng
bê tông, cột vuông kích thước khoảng 200×200. Giá một ngôi nhà hoàn toàn bằng gỗ
khoảng 800-900 triệu trong khi nhà bằng bê tông, xây gạch khoảng 400-500 triệu
đồng.
Cũng do việc thay đổi vật liệu khung từ gỗ sang bê tông mà
hình dáng khung đỡ mái cũng thay đổi. Tuy nhiên một số hộ vẫn cố gắng đổ bê
tông toàn khối giống như kiểu khung gõ, khá phức tạp trong thi công.
- Xu hướng chuyển từ sử dụng mái lợp tranh sang mái lợp
ngói, tôn hoặc fibrô-ximăng. Thực tế hầu như không còn thấy mái tranh tại Nghĩa
Lộ. Tại bản Hốc, Văn Chấn - Yên Bái, nơi có nhiều nhà làm du lịch dạng
homestay, nhiều nhà cũng dùng mái fibrô-ximăng hoặc mái tôn (có che bạt thay trần).
Những mái này khá nóng, tiếng ồn lớn khi trời mưa nhưng vì rẻ, phù hợp với điều
kiện người dân nên vẫn đươc sử dụng nhiều. Ngoài ra có một số nơi lợp ngói ta
nhưng vì mái khá nặng, tốn gỗ nên gần đấy ít xây dựng.
Chính vì lợp fibroximang nóng nên mùa hè người dân thường
sinh hoạt dưới tầng trệt, tối đến mới lên nhà. Đây cũng là lý do sẽ dẫn đến xu
hướng ở trệt như người Kinh.
Cũng vì việc sử dụng vật liệu này mà nhiều gia đình người
Thái đen đã không còn làm đầu hồi nhà cong hình mui rùa mà làm phẳng giống nhà
người Thái trắng.
- Các cấu kiện tường, vách thang và nhiều chi tiết kiến
trúc khác: Tường đang có xu hướng từ vách gỗ chuyển sáng xây gạch tường 110,
sàn đổ bê tông lát gạch hoa, cửa đi gỗ thay bằng cửa kính. Cầu thang nhà có xu
hướng bỏ 1 thang, chỉ dùng 1 cầu thang là khá phổ biến. Cũng vì chiều cao tầng
trệt lớn nên số bậc không còn là 7 hoặc 9 được nữa, số bậc hiện nay thường là
11-13 bậc.
Xu hướng nâng cao sàn và sử dụng tầng trệt (gầm sàn) với nhiều chức năng đa dạng hơn.
Sự mất đi của các trang trí kiến trúc mang tính đặc trưng của
ngôi nhà dân tộc Thái cũng khá rõ. Khau-cút, biểu tượng của ngôi nhà Thái nay hầu
như không còn thấy tại Yên Bái. Qua tìm hiểu được biết Khau- cút vốn là biểu
trưng cho sự giàu có hoặc vị thế của gia đình trong bản, nhà giàu thường làm
Khau – cút đẹp. Tại bản Hốc, bản du lịch của Văn Chấn nhưng cũng không còn ngôi
nhà nào còn Khau-cút, người dân đã bỏ từ những năm 80-90. Các chi tiết trang
trí như lan can, cửa sổ đã ít nhiều ảnh hưởng của vật liệu mới từ miền xuôi và
không thể tránh khỏi phong cách kiến trúc lai tạp như kiểu lan can inox dáng
con tiện, con tiện bê tông… cửa số kính.
- Sự thay đổi trong tập quán, lối sống cũng đã làm thay đổi
cách bố trí nội thất trong ngôi nhà. Bên trong nhà hầu như không còn bếp lửa. Bếp
được điều chỉnh thành các dạng đặt ở gian đầu hoặc cuối, hoặc tách ra bên ngoài
nhà, xây một ngôi nhà nhỏ trệt hoặc nhà sàn hoặc bố trí ở tầng trệt. Việc sử dụng
bếp ga, bếp điện tại các bản gần đô thị cũng tạo điều kiện để người ở thay đổi
cách đặt bếp kiểu nấu củi truyền thống.
Xu hướng chuyển từ sử dụng mái lợp Tranh sang mái lợp ngói, tôn hoặc
fibrô-ximăng.
Khu vệ sinh trước đây đặt xa nhà, nay ngày càng có xu hướng
đặt gần hơn. Khu vệ sinh thường bố trí trong nhà phụ (tầng trệt ) hoặc ngay
trong tầng trệt nhà chính. Cũng do có hệ thống giếng khoan nên nhà vệ sinh có
thiết bị mới, bình nước i-nox trên nóc nhà đã trở nên phổ biến.
Bên trong ngôi nhà, các chức năng khác cũng xuất hiện như
chỗ để tủ ly, vô tuyến, một số nhà đã tiếp khách bằng bộ bàn ghế gỗ kiểu người
Kinh thay vì ngồi trệt. Chỗ ngủ của người Thái trước dây là trải đệm, một số hộ
nay cũng thay bằng giường.
Số lượng người trong một căn hộ thay đổi cũng làm cho nhu cầu
diện tích ngôi nhà nhỏ lại. Thường mỗi hộ gia đình nay cũng chỉ có 2,3 con, nhu
cầu cần nhiều gian làm nơi ngủ giảm. Trước đây một ngôi nhà 5 gian có diện tích
sàn khoảng 120m2, có thể có tới 6 buồng ngủ. Nay một số nhà đã chủ động cắt ngắn
số gian để giảm diện tích sàn xuống khoảng 80-90 m2, chỉ để 3-4 buồng ngủ.
Chính vì vậy ta có thể thấy nhiều ngôi nhà chỉ có 4 gian, không theo quy uớc số
gian lẻ như trước.
Có một số hiện tượng tuy không phổ biến nhưng cũng đã thấy
xuất hiện đó là dạng nhà sàn 3 tầng. Có thể thấy biến thể này gần như đã làm
thay đổi hoàn toàn hình dáng của ngôi nhà sàn truyền thống, cho hình ảnh khá xa
lạ.
Đánh giá các yếu tố tích cực và tiêu cực của các xu hướng
biến đổi trong kiến trúc nhà sàn Thái
Sử dụng các cấu kiện bê tông thay thế dần khung gỗ là một ứng
xử phù hợp, tất yếu do điều kiện tự nhiên đã thay đổi. Tuy nhiên xu hướng làm dạng
cột vuông đã làm thay đổi cơ bản kiểu dáng kiến trúc nhà truyền thống, việc sử
dụng cấu kiện bê tông mô phỏng cấu kiện gỗ chưa được xử lý tốt.
Xu hướng sử dụng tầng trệt là sự thích ứng với điều kiện sống
mới, tuy nhiên cần tránh xu hướng trệt hóa như nhà người Kinh. Có thể nói việc
để lộ các cột tròn tầng trệt, chỉ sử dụng một phần không gian tầng trệt, mái dốc
là một nguyên tắc cơ bản để giữ được hình thái ngôi nhà truyền thống của người
Thái.
Sử dụng mái dốc vẫn được duy trì, đã cơ bản giữ được hình
thái mái truyền thống. Tuy nhiên việc sử dụng các vật liệu mới bền, rẻ chưa
hoàn toàn đáp ứng được các yêu cầu cách nhiệt, chống ồn. Rất cần có các giải
pháp kiến trúc và sử dụng vật liệu phù hợp hơn.
Việc tách bếp ra cũng làm mất đi vai trò của thang phụ, xu
hướng bỏ 1 thang cũng là một mất mát khá lớn trong ý nghĩa văn hóa đối với nhà
truyền thống của dân tộc Thái. Chỉ có 1 thang dẫn đến xu hướng bố trí lại các
chức năng gian trong nhà, ngày càng xa rời các nguyên tắc văn hóa truyền thống
như quy định chỗ ngủ, quy cách ứng xử của nam nữ, người già… trong gia đình.
Xây dựng nhà phụ làm bếp, vệ sinh kề sát nhà chính rất thuận
tiện về công năng, gần với xu hướng khép kín của lối sống hiện đại. Tuy nhiên
việc kết nối nhà chính- phụ chưa được xử lý tốt, nhiều dạng nối mái làm hỏng thẩm
mỹ kiến trúc của nhà chính.
Xu hướng tách bếp ra khỏi nhà chính, có thêm các chức năng
như bàn ghế tiếp khách, chỗ xem vô tuyến, chỗ treo tranh, ảnh gia đình, gương
soi của phụ nữ… là những chức năng mới nhưng các không gian nội thất chưa được
nghiên cứu chuyển đổi phù hợp, gây cảm giác khá lộn xộn.
Các chi tiết lan can, cửa, thang dùng các vật liệu inox,
con tiện xi măng là những thích ứng, tiếp thu vật liệu mới. Tuy nhiên chưa có
những thiết kế sử dụng vật liệu mới phù hợp, sự lai tạp phong cách kiến trúc rõ
rệt là đáng tiếc, làm mất các bản sắc văn hóa của ngôi nhà.
Tất cả những biến đổi tích cực và tiêu cực này hiện đang diễn
ra tự phát, các vấn đề phải giải quyết đặt lên vai chính người dân. Với tính chất
tự xây, trình độ của người dân, sự hiểu biết về vật liệu mới hạn chế thì sự
chuyển hóa trong ngôi nhà sao cho vừa kế thừa các giá trị truyền thống vừa tạo
không gian ở thích ứng với điều kiện sống mới quả là thách thức lớn.
Hiện nay chưa có một thiết kế mẫu, một hướng dẫn nào làm định
hướng cho nhà sàn dân tộc Thái. Đã thấy rõ áp lực, xu hướng biến đổi là rất lớn,
liệu trong vòng 10-15 năm nữa còn có bao nhiêu nhà sàn truyền thống còn được
lưu giữ trong các bản của người Thái?
Trong Chương trình xây dựng nông thôn mới của Trung ương hiện
nay cũng cần nghiên cứu đưa ra những mẫu thiết kế dành riêng cho các dân tộc. Đồng
thời cần có những nghiên cứu sâu, rộng, từ các bản làng nằm trong các huyện miền
núi, từ đúc kết kinh nghiệm của việc xây dựng nhà ở cho dân cư dân tộc Thái tại
các khu tái định cư thủy điện, từ các làng bản ven đô đến các làng bản trong đô
thị để có cái nhìn toàn diện, từ đó tìm hướng đề xuất không chỉ ở giải pháp kiến
trúc mà còn đi kèm cả giải pháp về vật liệu, kết cấu và áp dụng các công nghệ
xây dựng phù hợp.
Việc giữ gìn kiến trúc nhà sàn Thái truyền thống cũng tránh
chỉ chú trọng ở việc bảo tồn, tu bổ các ngôi nhà sàn truyền thống theo nguyên gốc
để làm du lịch mà cần nhìn nhận một mục tiêu lớn hơn, một trách nhiệm lớn, đó
là định hướng sự biến đổi của nó, kế thừa các giá trị văn hóa của nó, hòa mình
trong cuộc sống đương đại.
PGS.TS KTS Phạm Hùng Cường
(Tạp
chí Kiến trúc Việt Nam)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét