Địa bàn cư trú của họ thường ở các đồng bằng ven chân núi
và làng bản quần tụ bên các sông suối. Với những nét đặc thù như vậy, đồng bào
Thái đã hình thành nhiều phong tục, tập quán gắn với sông, suối và nền văn minh
lúa nước như tục cầu mưa; tục té nước ngày xuân; tục thờ cúng thuồng luồng và
những truyền thuyết tình yêu gắn liền với sông, suối...
Đồng thời, xưa kia do thủy sản trong các sông, suối rất nhiều,
dễ khai thác nên nguồn thức ăn từ thủy sinh đã trở thành món ăn thường nhật của
người Thái. Nhiều món ăn từ thủy sản được bà con chế biến theo cách riêng trở
thành đặc sản và có những món đã vượt qua ý nghĩa ẩm thực thông thường để trở
thành biểu trưng văn hóa trong lễ, tết, hôn nhân, tang ma...trong đó có món cá
muối (pa bẳng) và món cá sấy (pa hắp) để tạo nên món “bẳng-hắp”, là món không
thể thiếu trong số các lễ vật đám cưới của nhà trai mang sang nhà gái. Món pa bẳng
được làm từ những loại cá rất ngon như cá xỉnh, cá khuy hoặc cá chép. Cá được
làm sạch và ướp với muối, riềng giã nhỏ, thính gạo rồi lèn chặt vào ống nứa to,
lấy lá dong nút chặt lại để cá lên men. Khi chuẩn bị lễ vật mang sang nhà gái
thì dùng những tấm nan đan mắt cáo bằng lạt mỏng buộc túm đầu miệng ống bằng lạt
màu và quai xách cũng làm bằng lạt màu rất đẹp. Món pa hắp cũng được làm từ các
loại cá nêu trên. Cá được làm sạch, ướp muối rồi xếp vào những chiếc giỏ nhỏ
lót lá dong và làm giàn tre để sấy cá trên gác bếp. Khi chuẩn bị làm lễ vật dẫn
cưới, người ta đan những chiếc giỏ nhỏ, có quai xách bằng dây vải thêu màu ngũ
sắc rồi xếp cá vào đó. Cả món bẳng và hắp khi ăn đều phải nướng trên than hồng.
Vì sao đám cưới của người Thái không thể thiếu được món bẳng - hắp?
Nhiều bà
con dân tộc Thái cho rằng, hai món cá này rất ngon, cho nên khi nuôi con gái đến
lúc gả chồng thì nhà gái bao giờ cũng muốn có những món “sơn hào hải vị” này để
thết đãi bản làng. Những người có vai vế trong dòng họ, bản làng hoặc người ở
xa đến dự đám cưới, khi trở về được hỉ chủ biếu cho món này mang về làm quà cho
những người thân không đến được thì những người được nhận quà sẽ cảm thấy mình
đã được gia chủ rất quý mến và kính trọng. Bên cạnh ý nghĩa rất thực dụng nêu
trên thì cũng có những cách giải thích khác mang nặng ý nghĩ tâm linh đối với
món bẳng-hắp trong lễ cưới. Họ cho rằng, món cá ướp trong ống nứa và sấy khô
trên gác bếp là lễ vật biểu trưng cho mối quan hệ âm dương, để cho đôi vợ chồng
sau khi cưới có được cuộc sống hòa hợp như cá với nước. Cá là con vật sống dưới
nước, sinh sôi nảy nở nhiều. Vì vậy, món cá bẳng-hắp bắt buộc phải có trong lễ
vật đám cưới để dâng cúng tổ tiên, thần linh và thết đãi dân làng còn chứa đựng
cả những ước muốn của con người sau khi kết hôn sẽ sinh con đẻ cái thuận lợi và
làm ăn phát triển... Với những ý nghĩa trên khiến cho món bẳng-hắp luôn được
nhà gái “thách cưới” khi hai bên cùng phán cưới chứ không phải nhà trai muốn
mang đến nhà gái bao nhiêu cặp bẳng-hắp thì tùy tâm. Đồng thời, số lượng bẳng-hắp
khi dẫn lễ cưới, bắt buộc phải làm thành từng cặp theo số chẵn. Nếu nhà nào có
hoàn cảnh khó khăn mà không chuẩn bị được nhiều bẳng-hắp mang đến nhà gái thì
có thể thương thảo xin rút bớt. Ngày nay, do sự giao lưu văn hóa giữa miền xuôi
với miền ngược; do nguồn thủy sản ở các sông, suối đã không còn nhiều như trước
nên nhiều vùng trong cộng đồng người Thái không còn duy trì được lễ vật này
trong lễ cưới. Tuy nhiên, “tục xưa nếp cũ” xin được nhắc lại để mọi người hiểu
thêm một nét văn hóa truyền thống trong nghi lễ hôn nhân của đồng bào Thái từ
xa xưa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét