Rời Hà Nội theo quốc lộ số 6, từ Hoà Bình
trở đi là bắt đầu nhìn thấy hoa Ban. Xe
tiếp tục chạy, càng lên cao hoa Ban càng nhiều. Bên ô cửa kính, du khách có cảm
giác bâng khuâng như gặp muôn nghìn cánh bướm chập chờn bay theo trong suốt cuộc
hành trình. Qua huyện lỵ Thuận Châu (Sơn La), là tới địa danh bất tử "Hùng
vĩ Pha Đin gì sánh được" - nơi Quang Dũng từng ba lần xúc động thốt lên
như vậy, trên đường Tây Tiến năm xưa...
Giữa bao la chồi non lộc biếc đại ngàn, từng chùm hoa Ban trắng
như bông và xốp tựa mây, trôi bồng bềnh trong không gian, chảy xuống các lòng
thung và vắt lên lên tận các đỉnh núi chọc trời. Tây Bắc là xứ sở của hoa Ban
và hoa Ban là biểu trưng của Tây Bắc. Điều đó cắt nghĩa cho việc vì sao các giống
hồng, lan, huệ, cúc... có thể thấy ở bất kỳ đâu, nhưng riêng hoa Ban thì chỉ rực
rỡ ở Tây Bắc.
Cây Ban thân mộc, không mọc thẳng mà khẳng khiu
uốn khúc, chia cành phân nhánh như có bàn tay tạo dáng của đấng hoá công. Về
mùa đông cây Ban tự mình trút lá, dồn nhựa vào thân, đợi sang xuân ấm áp đâm chồi
nảy lộc. Lá Ban mọc cách, không xếp thành tán và không rậm rạp như các loài cây
khác; lá hình móng bò, rất giống hai trái tim đặt cạnh nhau. Sức sống của cây
Ban thật mãnh liệt, dù trên đồi cỏ gianh khô cằn hay bám vào vách đá cheo leo,
cứ qua mùa đốt nương là cây Ban trỗi dậy trong sự trường sinh bất tử. Ban có
hai loài, hoa đỏ và hoa trắng, loài hoa trắng chiếm đa số. Hoa Ban cùng họ với
hoa bướm, không có hương nhưng có vị, mỗi hoa gồm từ 4 - 5 cánh, nhị màu hồng,
gân màu tím. Nhị hoa Ban mang vị ngọt, quyến rũ nhiều loài côn trùng, nhất là
các loài lấy mật như ong và bướm. Tên gọi hoa Ban theo tiếng dân tộc Thái, có
nghĩa hoa Ngọt, đó vừa là danh từ vừa là tính từ.
Hàng năm, đầu tháng 2 âm lịch, hoa Ban lác đác
nở, rộ nhất và đẹp nhất là cuối tháng 2, đến cuối tháng 3 thì hoa tàn dần. Lúc
nở rộ trông cây Ban như chỉ có hoa mà không có lá. Bà con vùng cao coi hoa Ban
như thể nông lịch của mình, họ phát nương vào lúc hoa nở và tra hạt vào lúc hoa
tàn. Mùa hoa Ban, các bà các chị lúc đi nương về trong “ếp” thường có một ít
hoa Ban, không phải để chơi mà là để ăn. Hoa Ban nấu canh, làm nộm, đồ lên chấm
với dấm ớt măng chua... đó là thuộc tính riêng của hoa Ban mà nhiều loài hoa
khác không có được. Theo kinh nghiệm thảo dược dân gian: Lấy 15 - 20gram hoa
Ban phơi khô, sắc trong khoảng 500ml nước, còn lại khoảng 100ml. Sau đó chia uống
ba lần sáng, trưa, tối trong ngày (có thể pha thêm chút đường), trị chứng ho
khan hoặc viêm họng rất tốt. Có người dùng lá và búp non của cây Ban, cũng dưới
dạng sao vàng hạ thổ, chữa bệnh kiết lỵ tương đối hiệu quả.
Lặng lẽ dâng tặng và dâng tặng hết mình, đã từ lâu hoa Ban đi vào
thơ - ca - nhạc - hoạ. Gần nửa thế kỷ trước, hoa Ban từng nở rộ trong những
trang ký lấp lánh của Nguyễn Tuân.Hàng nghìn đời nay, hoa Ban đã rất tự nhiên
đi vào đời sống văn hoá - tâm linh của nhân dân Tây Bắc; nhất là bà con thuộc
nhóm ngôn ngữ Tày - Thái. Với đồng bào Thái, có lẽ không ai là không trải qua
tuổi thanh xuân nồng cháy, với những trò chơi thú vị hái hoa Ban và hát giao
duyên. Trong ký ức của người đi xa, cùng với nỗi nhớ mường nhớ bản, nhớ người
yêu, còn có nỗi nhớ da diết hoa Ban vào mỗi độ xuân về. Có người bảo hoa Ban nở
như giục mầm măng mọc, như báo hiệu cho mùa lễ hội truyền thống“Xên lẩu nó”bắt
đầu.
Trên bàn thờ của thầy cúng, cành hoa Ban là vật hiến tế nổi bật nhất
và trang trọng nhất, được điểm xuyết bởi những búp măng và những chùm trứng gà
cách điệu màu sắc sặc sỡ. "Hoa Ban đỏ", đó không chỉ là tiêu đề mà
còn là cái tứ để Nghệ sĩ ưu tú Bạch Diệp kết lại bộ phim truyện cùng tên, về đề
tài Chiến thắng lịch sử Điện Biên. Đặc biệt, trong lăng Bác Hồ ở quảng trường
Ba Đình - Hà Nội, bên cạnh các giống cây trái từ khắp mọi miền đất nước về đây
tụ hội, cây Ban tượng trưng cho tình cảm và lòng biết ơn của đồng bào các dân tộc
Tây Bắc đối với vị Cha già kính yêu suốt đời vì nước vì dân.
Trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc thiểu số Tây Bắc, hoa
Ban kiêu hãnh xuất hiện trong các trường ca, các truyền thuyết và các câu chuyện
kể bên bếp lửa hàng đêm. Về sự tích hoa Ban, đồng bào Thái có câu chuyện cảm động
rằng: Để tỏ lòng thương tiếc Chương Han - người anh hùng dân tộc dám chống lại
các vua chúa và cả các thánh thần - nhân dân buộc những mảnh khăn tăng lên các
cành cây. Về sau, thời gian như có phép nhiệm màu đã hoá những mảnh khăn tang
thành những đoá hoa Ban trắng trong, tinh khiết.
Hiện nay, trong cộng đồng các dân tộc Tây Bắc
đang tồn tại 3 "típ" truyện nữa, cùng có nội dung giải thích nguồn gốc
hoa Ban; đó là truyện Pi Khun-Noọng Ban, truyện Cầm Đôi - Hiến Hom và truyện
Bun Trai-Bun Nhinh (có người gọi truyện Hai Bun). Cách dẫn dắt và tên nhân vật
của các truyện tuy có khác nhau, nhưng đều giống nhau ở chỗ dùng hoa Ban làm biểu
tượng cho tấm lòng thuỷ chung trong tình yêu đôi lứa (nhiều người gọi hoa Ban
là "Hoa Tình yêu" cũng bởi như thế). Để khai thác những đặc tính của
hoa Ban, hiện nay trong các nhà hàng, khách sạn ở Tây Bắc nói chung và Điện
Biên nói riêng, các món ăn từ hoa Ban đang xuất hiện nhiều hơn trong các thực
đơn. Còn gì thú vị hơn và nên thơ hơn khi trong một khung cảnh trữ tình, thực
khách vừa khoan khoái thưởng thức những món ăn từ hoa Ban với hương vị độc đáo,
vừa được các nữ tiếp viên xinh đẹp kể cho nghe câu chuyện tình bất tử về hoa
Ban. Chuyện rằng...
... Ngày xửa ngày xưa, ở mường nọ có một chú bé tên là Khun. Chàng
Khun càng lớn càng làm nương giỏi, săn bắn lại rất tài. Cùng bản có cô gái tên
là Ban đẹp người đẹp nết, múa dẻo, hát hay. Khun và Ban yêu nhau tha thiết, hẹn
ngày kia nên vợ nên chồng. Nhưng trong vùng có tên chúa đất gian tham, thấy Ban
xinh đẹp nó liền cho người bắt Ban về làm vợ, trong khi Khun đang đi làm ăn ở
nơi xa. Ban bỏ nhà, bỏ bản quyết chí ra đi tìm Khun. Nàng vào rừng, đi mãi, gọi
mãi mà chẳng thấy Khun đâu. Một chiều nọ, leo tới đỉnh núi thứ một nghìn thì
Ban gục xuống trong đói khát, mệt mỏi và tuyệt vọng. Từ chỗ Ban nằm, bất ngờ mọc
lên một loài cây với những cái lá trông như hình hai trái tim lồng lên nhau. Chỉ
mấy hôm sau, cây trổ những cái nụ trắng hồng như ngón tay trinh nữ, những cái nụ
lại nở ra những đoá hoa có nhị mang màu tím thuỷ chung, còn cánh thì trắng như
màu ly biệt - đó là cây Ban... Ngày Khun trở về không thấy Ban, chàng đi tìm
qua muôn ngọn núi, qua vạn ngả đèo. Cuối cùng Khun kiệt sức ngã xuống, biến
thành con chim mà nay người ta gọi là chim Khun. Loài chim Khun sống lẻ loi
trong rừng, không có bầy đàn, không có tổ, suốt ngày bay vô định như kiếm tìm
gì đó giữa hoang dã điệp trùng. Quanh năm chim Khun im lặng, chỉ khi mùa xuân về,
hoa Ban nở thì chim mới hót. Tiếng hót chim Khun nghe như tiếng kêu khắc khoải
lạc bầy, khi hoa Ban tàn thì chim Khun cũng thôi không hót. Có lẽ nó lại dành
thời gian vào việc kiếm tìm trong tuyệt vọng, khổ đau...?
Mùa xuân, khắp miền Tây Bắc đâu đâu cũng có hoa Ban - đó là loài
hoa đã đi vào huyền thoại, đi vào tình yêu, đi vào câu chuyện bên bếp lửa hàng
đêm. Dân ca Thái có câu hát: "Đôi
ta yêu nhau không tính mùa ban nở - Không thấy ngày ban tàn - Không tính tháng,
không tính năm - Mãi mãi như mùa hoa đầu đôi ta yêu nhau"...Nếu
lên Tây Bắc vào dịp xuân sang, rất có thể bạn sẽ được dự lễ hội "Kin pang
then" của người Thái Trắng và lễ hội "Kin chiêng bók may" của
người Thái Đen, bạn sẽ được đắm mình qua những cuộc vui nồng nàn, ý vị và đậm
đà bản sắc, để tạm quên đi những âu lo trĩu nặng kiếp con người. Trên cột cây "hoa
chủ", xin bạn hãy ngắm kỹ cành hoa Ban trong không gian kiến trúc của nhà
sàn - khau cút. Rồi tự bạn sẽ cảm bằng tim chứ không chỉ thấy bằng mắt,
rằng quả thực ở đâu hoa Ban cũng đẹp, đẹp như chính những bàn tay ngọc ngà của
các "nàng Kiều" khăn piêu áo cóm, đang thật khẽ khàng vít cong cần rượu
mời ta...
Thu Loan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét