Hoa Ban xuất hiện tại bản Na Va xã Viêng
Lán huyện Yên Châu, như một tình sử trường ca, các truyền thuyết và các câu chuyện kể bên bếp lửa
hằng đêm của người dân Tây Bắc. Dã sử dân gian kể rằng xưa hoa ban chỉ một màu trắng.
Từ khi nàng Mai con gái của Lang Cum nổi tiếng khắp chín châu mười Mường chối bỏ
ngôi bà Nàng, lấy chồng nhà dân mọn rồi theo quân ông Hoàng đánh giặc dữ. Khi
ông Hoàng thua lớn ở Mạnh Thiên, vợ chồng nàng Mai tuẫn tiết theo chủ tướng dưới
gốc một cây Ban cội. Máu của hai người làm mùa xuân năm ấy cây Ban cội ra màu
hoa ban đỏ. Rồi gió đưa nhị hoa rải khắp vùng tạo thành giống Ban hồng ngày
nay.
Đối với người dân vùng Tây Bắc cả hai thứ hoa Ban đều là món "hoa rau"
quý. Quà tết bố vợ ở xã Chiềng Pấc, huyện
Thuận Châu... bên cạnh bánh chưng, bánh đuôi
én, bánh trứng kiến (loại bánh làm bằng bột nếp trộn với trứng kiến trên rừng)
bao giờ cũng đặt cùng với “hoa rau" mới tỏ rõ sự trân trọng thanh
cao.
Hoa Ban không có hương nhưng có vị, mỗi hoa có 4 - 5 cánh, nhị mầu hồng, gân mầu tím. Nhị hoa mang vị ngọt, quyến rũ nhiều loài côn trùng, nhất là các loài lấy mật như ong, bướm.
Tên gọi cây hoa ban trắng theo tiếng của dân tộc Thái, có nghĩa
là hoa ngọt, đó vừa là danh từ vừa là tính từ. Hoa ban nở rộ nhất và đẹp nhất
là đầu tháng ba, đến đầu tháng tư thì hoa bắt đầu tàn. Lúc nở rộ, trông cây ban
như chỉ có hoa mà không có lá.
Bà con vùng cao coi hoa ban như thể nông lịch của mình, họ
phát nương vào lúc hoa nở và tra hạt vào lúc hoa tàn. Cứ năm nào hoa ban nở đều
khắp cả suối, cả đồi, cả rừng là năm ấy trời không mưa dai quá mà không nắng gắt
quá! Và năm đó người ta ít lo lắng về nắng hạn cũng như lũ lụt.
Hàng năm, cứ vào mùa hoa ban nở, người Thái ở huyện Mai
Châu (Hòa Bình) lại mở Hội Xên bản, xên mường (còn gọi là hội hoa ban) để cầu
phúc và gửi gắm vào đó những ước vọng lớn lao về một cuộc sống bình yên, no ấm
nơi bản mường, đồng thời cũng là dịp thi tài, vui chơi, trai gái tìm hiểu, tâm
tình qua tiếng hát, tiếng đàn.
Truyền thuyết của người Thái kể rằng: Thuở ấy, có một chàng
trai tên là Khum đem lòng yêu cô gái tên là Ban. Khum vừa giỏi làm nương, lại
có tài săn bắn. Ban thì khéo tay dệt vải lại vừa có giọng hát làm say đắm nhiều
chàng trai. Thế nhưng, cha nàng Ban vì ham giàu nên đã đem gả nàng cho con trai
nhà tạo mường, vốn là một thanh niên lười nhác lại có tật gù lưng.
Trong bước đường cùng, nàng Ban đã chạy sang bản của Khum để cầu cứu. Nhưng chẳng may khi đến nhà Khum, thì được tin chàng đã theo cha đi mua trâu ở bản xa. Nàng bèn lấy chiếc khăn piêu của mình, buộc vào nơi cầu thang nhà người yêu, rồi bươn bả đi tìm chàng. Nàng đi hết núi này, rừng khác, gọi tên người yêu đến khản cả giọng, nhưng chàng ở xa nào có nghe thấy.
Trong bước đường cùng, nàng Ban đã chạy sang bản của Khum để cầu cứu. Nhưng chẳng may khi đến nhà Khum, thì được tin chàng đã theo cha đi mua trâu ở bản xa. Nàng bèn lấy chiếc khăn piêu của mình, buộc vào nơi cầu thang nhà người yêu, rồi bươn bả đi tìm chàng. Nàng đi hết núi này, rừng khác, gọi tên người yêu đến khản cả giọng, nhưng chàng ở xa nào có nghe thấy.
Cuối cùng kiệt sức, nàng ngã gục sau khi vượt qua một dãy
núi cao. Nơi nàng nằm xuống, sau đó mọc lên một cây hoa mang búp trắng như búp
tay người con gái. Và chẳng bao lâu, loài hoa ấy mọc lan ra khắp núi rừng Tây Bắc,
và hàng năm cứ mỗi độ xuân về, hoa nở trắng như bông. Người ta đặt tên loài hoa
đó là hoa ban.
Chàng Khum, khi về đến nhà, thấy chiếc khăn piêu của người
yêu vắt nơi cầu thang, biết là có chuyện chẳng lành, bèn vội vã đi tìm. Đi mãi
hết mường này, bản khác, cuối cùng, chàng kiệt sức, ngã xuống. Sau khi chết,
chàng hóa thành con chim sống lẻ loi trong rừng, và cứ đến mùa hoa ban nở, lại
hót vang như tiếng gọi người yêu tha thiết tự năm nào.
Do yêu hoa, con trai con gái Tây Bắc lặn lội trong những
cánh rừng mờ sương ngắm nhìn những bông hoa sáng rực như hạt ngọc, họ hái hoa
cài lên tóc, họ còn đem hoa về biếu cho người thân quen nhất để mở tiệc ăn mừng
mùa hoa ban nở.
Mùa hoa ban, các bà các chị lúc đi nương về thường mang
theo một ít hoa ban, không phải để chơi mà là để ăn. Hoa ban nấu canh, làm nộm,
đồ lên chấm với dấm ớt măng chua... đó là thuộc tính riêng của hoa ban mà nhiều
loài hoa khác không có được. Hoa ban còn là vị thuốc quý trị chứng ho khan hoặc
viêm họng rất tốt. Có người dùng lá và búp non của cây ban sao vàng hạ thổ, chữa
bệnh kiết lỵ tương đối hiệu quả.
Trong mâm cỗ đầu năm, người Thái cũng hay cài những cánh
hoa đẹp trên bàn thờ như thể biết ơn những bậc sinh thành đã qua đời. Nếu là
con trai hay con gái họ kể cho nhau nghe câu chuyện tình trong trắng và thương
tâm, thủy chung của chàng Khum và nàng Ban xa xưa rồi cùng rủ nhau ra rừng tìm
những cánh hoa ban mới nở. Họ trân trọng mang về tặng cha mẹ, tặng người yêu,
vì người Thái cho rằng, hoa ban trong trắng vừa là biểu tượng của đạo hiếu đối
với cha mẹ, vừa là biểu tượng của tình yêu trai gái.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét