Sơn La là vùng đất sinh sống lâu đời của 12 dân tộc anh em,
mỗi dân tộc đều có những bản sắc văn hóa riêng, độc đáo và tương đồng có lẽ vì vậy
mà các món ăn ở Sơn La mang những hương vị không trộn lẫn, có từ ngàn đời nay.
Thịt trâu khô (Trâu gác bếp)
Thịt trâu gác bếp là món ăn ngon phổ biến của người Thái
Làm khô là cách dự trữ thức ăn rất phổ biến của đồng bào
Thái. Thịt trâu khô là một trong những cách dự trữ ấy nhưng hương vị đặc biệt lại
khiến nó trở nên hấp dẫn có tiếng. Không phải lúc nào đồng bào Thái ở Sơn La
cũng có thể chế biến thịt trâu khô, mà trong dịp tết hay lễ cúng lớn, gia đình
có mổ trâu thì người ta mới để lại một ít để làm món này.
Để làm thịt trâu khô, người Thái thường lựa thịt ở bắp, ít
gân, thớ thịt đều, đẹp. Thịt trâu lọc bỏ gân, thái miếng dài khoảng 15cm, rộng
7 – 8cm, dày khoảng 2 – 3 cm, rồi đem ướp gia vị. Gia vị để ướp khá phức tạp, gồm
nhiều thứ: ngoài muối, đường, mỳ chính, còn có ớt, sả, tỏi, gừng, mắc khén (loại
gia vị chỉ có ở vùng núi), tất cả được đem giã nhỏ, trộn đều rồi ướp với thịt
trong khoảng 2 – 3 tiếng cho ngấm. Sau đó, dùng que xiên thịt rồi đem phơi nắng
hoặc để trên gác bếp. Khi thịt đã khô thì đồ lại trong khoảng hơn một tiếng để
thịt chín đều. Có thể ăn ngay hoặc treo trên gác bếp để dùng dần.
Khi ăn, thịt trâu khô có thể đem nướng trên than hồng hoặc
đồ lại cho thịt mềm, dễ ăn. Món này hấp dẫn bởi hương vị đặc biệt, có vị cay của
ớt, vị nồng của tỏi, vị ngọt của thịt và nhất là mùi ngai ngái của khói bếp,
mùi thơm không trộn lẫn cùng vị tê tê nơi đầu lưỡi khi ăn của hạt mắc khén.
Pa Pỉnh Tộp (Cá nướng gập)
Người Thái gọi món cá nướng là món Pa pỉnh tộp. Đây là món
ăn cổ truyền, để chế biến được món cá pỉnh tộp thì bạn phải có đầy đủ gia vị đặc
trưng như: mắc khén, gừng, xả, ớt tươi, rau mùi, rau thơm, hành tươi, húng…Tiếp
đến là chọn cá, cần chọn có chép, trắm hoặc trôi khoảng từ 2 – 4 lạng nhưng thường
thì người dân địa phương chọn cá chép nuôi trong ao hoặc cá chép sông là ngon
nhất, mổ dọc sống lưng để nguyên nội tạng, bỏ mật và nhồi vào bụng cá cùng các
loại gia vị gập đôi lại, luồn đôi qua vòng miệng. Sau khi đã tẩm ướp gia vị ngấm
đều ta cho cá vào híp (đoạn tre tươi vừa đủ để kẹp chặt cá, chẻ đôi hay chẻ ba)
nướng trên than củi đã hồng, pa pỉnh tộp phải được nướng đều trên than hồng mới
không bị ám khói mà vẫn giữ được hương vị tự nhiên của cá. Cá nướng đã vàng đều
lan tỏa mùi thơm từ gia vị mùi cay cay của má khen mùi thơm của cá thưởng thức
miếng thịt cá vàng rộm, thơm lừng với cơm xôi dẻo ta mới thấy hết cái vị ngọt
béo của cá, vị cay của ớt của các loại gia vị, cơm xôi mà ăn với pa pỉnh tộp của
người Thái cũng được ví như cơm tám nấu niêu đất ăn với cá kho của người miền
xuôi vậy.
Nậm Pịa
Đây là một món ăn rất lạ, nguyên liệu làm món ăn này là tiết
bò hoặc tiết dê để đông, đuôi, dạ dày, cuống tim và không thể thiếu một thứ nước
sền sệt từ bên trong ruột non của con bò, gọi nó là “pịa”.
Người ta chọn một đoạn ruột non ngon để lấy pịa, ninh xương
và lục phủ ngũ tạng lên để lấy nước, sau đó họ đổ pịa vào, có nơi còn cho thêm
chút mật bò vào pịa. Phần ruột non sau khi lấy phải buộc chặt hai đầu, sau đó cắt
thành khúc, trộn kèm rau thơm, bột mắc khén (hạt tiêu rừng), tỏi, ớt, mùi tàu…tất
cả các gia vị được băm nhỏ rồi đun sôi lên. Nồi pịa đặt trên bếp lửa đun đến
khi nồi pịa sánh, sền sệt lại là được. Món nậm pịa ăn kèm với rau chuối và bạc
hà. Ban đầu chưa quen, chưa dám ăn thì món nậm pịa quả thật là rất khó ăn.
Món nậm pịa được múc ra bát có màu nâu, nước sền sệt, ban đầu
khi nếm thử ta sẽ thấy vị đắng và mùi hơi khó ngửi. Có nhiều người mới đầu khi
trông thấy bát nậm pịa, ngửi thấy mùi đã không ăn được. Nhưng khi đã nếm đôi ba
miếng, bỏ qua những cảm nhận ban đầu về mùi và vị, thì những miếng tiếp theo,
ta sẽ cảm nhận được mùi thơm của mắc khén, một loại gia vị của núi rừng. Vừa ăn
nậm pịa, vừa nhấm nháp chén rượu thơm, ta lại thấy miếng nậm pịa đắng nơi đầu
lưỡi và ngọt nơi cuống lưỡi. Món nậm pịa tuy vậy nhưng lại rất an toàn cho những
ai yếu bụng.
Trong tiếng Thái, “nậm” có nghĩa là canh, “pịa” là chất sền
sệt ở trong ruột non của bò. Món có tên đơn giản là nậm pịa, tùy theo cách hiểu
của mỗi người. Nậm pịa chỉ có ở vùng núi Tây Bắc từ Mộc Châu đến Sơn La, đây là
món ăn truyền thống có từ rất lâu đời và được đồng bào dân tộc Thái rất yêu
thích.
Cơm lam người Thái
Cơm lam là một món ăn đặc trưng của vùng Tây Bắc đặc biệt
là dân tộc Thái, Cơm lam được chế biến rất đơn giản từ gạo nếp, theo phong tục
của người Thái ngày xưa thì Cơm lam chỉ được làm sau khi thu hoạch xong vụ lúa
mới đặc biệt là người ta thích nấu bằng gạo nếp nương, gạo nếp được ngâm ủ qua
đêm cho vào từng ống tre mà bà con gọi là may khâu (Lam Pa Ngà), thêm nước vừa
đủ và nút lại bằng lá chuối hoặc lá dong rồi đưa lên bếp củi đốt cho đến khi vỏ
ống nứa cháy sém lan tỏa mùi thơm từ gạo, ống nứa không còn nước là chín.
Cơm lam
Sau đó chẻ tách từng phần cật chỉ còn lại lớp lụa mỏng bó
chặt từng cây cơm trắng nõn bạn phải thật khéo khi chẻ ống cơm lam nếu không chẻ
khéo không giữ được lớp lụa mỏng thì coi như cơm lam đã mất đi một nửa giá trị,
Trên lớp vỏ lụa trắng mỏng ấy có thoáng chút mặn, chút hương của rừng và của
khói làm cho miếng cơm dẻo thật sự thăng hoa, cơm lam thường được chấm muối hoặc
vừng tùy theo từng sở thích của mỗi người, cũng có những vùng người dân ăn cơm
lam với chẳm chéo món chấm đặc trưng của dân tộc Thái, Chẩm Chéo được chế biến
từ muối, ớt tươi nướng, rau mùi…, đặc biệt không thể thiếu loại trái rừng có
tên là mắc khén, tất cả được giã nhuyễn. Không có mắc khén không làm ra chẩm
chéo, không có chẩm chéo không thành bữa cơm lam. Cơm lam Sơn La thường được
bán vào mùa đông. Vì loại ống nứa để nướng cơm lam mùa này mới có.
Cháo Mắc nhung
Cháo mắc nhung – một món ăn được chế biến từ một thứ quả
màu xanh cùng họ với cà chua nhưng chỉ bé bằng hạt đu đủ chín, có vị cay cay, đắng
ngọt.
Sau mùa gặt, quả mắc nhung gieo vãi trên nương bắt đầu chín
mọng, bà con hái đem về rửa sạch, thêm gừng xả, trộn với gạo tấm, tưới ít nước
đủ chín, túm vào lá chuối buộc chặt vùi trong tro bếp nóng, hoặc đồ xôi, chỉ 30
phút sau sẽ có ngay một món ăn sền sệt, ngăm ngăm đắng, thơm cay là lạ đầy hấp
dẫn và chấm với xôi rất hợp khẩu vị.
Nộm da trâu
Da trâu rất khó lấy vì trâu bị lọc toàn bộ da, sau đó được
chuyển ngay cho các mối làm trống. Ấy thế nhưng người Thái ở Sơn La đã biến da
trâu trở thành đặc sản không thể thiếu trên mâm cơm những dịp đặc biệt.
Những người phụ nữ Thái đảm đang đã không ngại khó khăn để
làm mềm hóa sự dai và cứng của da trâu bằng cách hơ qua lửa rồi ngâm với nước
lã. Sau khi đủ độ, với con dao thật sắc, họ dùng hết sức để thái mỏng miếng da
dầy đó.
Thật lạ, miếng da trâu đen xì, dầy bịch ban đầu, qua vài
công đoạn tưởng như giản đơn đó lại biến thành món cực hấp dẫn từ ánh nhìn. Khi
thái mỏng tang, miếng da trâu giờ có màu vàng của quả chanh Tây, bên trong là
màu vàng nhạt, trong trong, cắn thử lại sần sật, giòn giòn, là lạ.
Cũng như nhiều món nộm khác của người Thái, nộm da trâu cần
gia giảm thêm nhiều gia vị và rau thơm như lạc, mùi ta, mùi tàu, chút hạt mắc
khén đặc trưng.
Đặc biệt, cái làm nên thứ quyến rũ của nộm da trâu chính là
vị chua của nước măng chua, chứ không phải của chanh hay giấm. Đó là vị chua
thơm, thanh thanh. Nước măng chua muốn ngon phải ngâm bằng thứ măng củ tươi, nước
suối và thêm những gia vị cần thiết. Măng cũng phải có thời gian để “ngấu” tiết
ra thứ nước chua thanh mát mới đúng điệu để trộn món nộm này.
Xôi sắn
Xôi sắn là là món ăn quen thuộc của người Thái vùng Tây Bắc.
Sắn bà con đào từ nương về bóc vỏ, rửa sạch rồi nạo thành từng sợi nhỏ trộn lẫn
với gạo nếp cho vào chõ đồ lên.
Để xôi dẻo, nắm tay không dính, lâu thiu, bà con không dùng
các loại chõ sành, chõ kim loại vì có nhược điểm thường gây ra “ướt xôi” không
ngấm nước. Cái chõ này được làm bằng những khúc gỗ có đường kính nhỏ, gỗ mềm
đem về cắt khúc, cưa rỗng giữa, tạo dáng đẹp như một đài hoa, thon nhỏ từ dưới
lên trên, đáy chõ có hai thanh tre nhỏ để đặt tấm đan thưa đỡ gạo khi cho gạo
vào chõ xôi. Phần chõ lại được đặt trên một cái ninh đồng, thay cho nồi. Dùng loại
chõ gỗ có ưu điểm gỗ hút hơi nước lên, xôi chín dẻo, khô. Khi xôi chín bà con đổ
xôi ra mâm, dàn mỏng dùng quạt, quạt cho xôi nguội nhanh. Rồi cho xôi vào các
“giỏ” đan bằng mây có nắp đậy, có quai treo lên cột nhà. Đến bữa đem ra dùng hoặc
đem đi làm nương ăn rất tiện. Thức ăn chỉ cần là gói muối ớt, hoặc con cá nướng.
Xoài trứng Yên Châu
Lần đầu tiên nhìn thấy, có thể bạn sẽ lặc đầu chê, xoài gì
mà vừa bé vừa xấu. Ấy thế mà ai đã ăn một lần là sẽ nhớ vị thơm vị ngọt của nó.
Xoài Yên Châu ngọt, thơm khác hẳn loại xoài ở các vùng khác. Khi chín xoài có mầu
vàng, tỏa mùi thơm hấp dẫn, đến mức rửa tay rồi, hương thơm của xoài vẫn vấn
vít, thoang thoảng. Cái ngọt của xoài Yên Châu cũng hơi khác, ngọt đậm nhưng lại
thanh mát cho nên không có cảm giác khé cổ bởi ngọt quá.
Đặc biệt ngon là những quả xoài bản địa được trồng tại Sặp
Vạt, Chiềng Pằn, Viêng Lán,……của vùng đất Yên Châu. Trọng lượng từ 200 – 250g,
nhựa quả trắng, trong, nhựa cây dạng sữa đục ngà, vỏ quả xanh nhạt, có các đốm
lấm tấm, hạt dẹt nhiều xơ.
Rượu chuối Yên Châu
Rượu chuối từ lâu đã nổi tiếng là đặc sản của vùng đất Yên
Châu (tỉnh Sơn La) và được bà con nơi đây trưng cất theo phương pháp thủ công
truyền thống. Để có được rượu chuối ngon thì trước tiên phải lựa chon loại chuối
phải thật chín, thái mỏng rồi đem phơi nắng cho thật khô. Rượu ngâm phải dùng
loại rượu cốt nguyên chất, cứ 1 kg chuối hột thì ngâm khoảng 2-2,5 lít rượu
nguyên chất. Đồ ngâm rượu phải là dùng lọ thủy tinh, rửa sạch. Bỏ chuối
vào,chuôi chiếm 1/3 lọ, rượu chiếm 2/3 lọ rồi đậy nắp kỹ, ngâm 100 ngày sau là
sử dụng được.
Tỏi tía Phù Yên
Tỏi cô đơn là một loại tỏi quí được trồng trên đất Phù Yên-
Sơn La. Tỏi này có mùi vị và công dụng rất đặc biệt. Ngoài việc dùng để ăn Tỏi
cô đơn còn dùng ngâm rượu để trong nhà làm thuốc gia truyền chữa và phòng ngừa
được nhiều bệnh. Tỏi nổi tiếng nhất được trồng là ở xã Gia Phù, huyện Phù Yên.
Chè Tà Xùa
Thiếu nữ Mông hái chè ở Tà Xùa
Chè Shan tuyết Tà Xùa có búp màu trắng, cánh vàng, lá to được
bà con lại chăm bón tự nhiên, không sử dụng hóa chất, việc thu hái, sao chế
tuân thủ đúng theo kinh nghiệm cha ông để lại nên chè khi uống có vị thơm, ngọt
thanh, mát dịu. Màu nước chè từ khi pha tới vài nước sau vẫn giữ được nguyên
màu xanh lơ đỏ. Khi uống chè, cảm giác đầu tiên là vị đắng chát, sau đó dần
chuyển sang ngọt, hương vị chè thơm đặc biệt khác lạ so với các dòng chè khác.
Bánh Dày người Mông ở Hồng Ngài
Nếp mới sau khi được đồ chín thì đượm nồng ngọt ngào vì ngấm
cái nắng, cái gió vùng cao. Xôi nếp được đổ vào chiếc cối to làm bằng nửa thân
cây gỗ. Công việc giã bánh dầy là khá nặng nhọc, phải do những người đàn ông
khoẻ mạnh đảm nhiệm. Theo nhịp chày hạ xuống, xôi nếp trong cối quện quánh, tan
vào nhau.
Tiếp đó là công việc của những người phụ nữ. Từng vắt bánh
nóng hổi tròn trịa dần dưới bàn tay các mẹ các chị. Năm nào thời tiết khắc nghiệt,
mùa màng kém, bánh dầy hơi đen và không dẻo. Năm nào mưa thuận gió hòa, bánh
ngon và giã quánh, đỡ vất vả hơn. 6 cặp bánh đầu tiên được gói nhanh, gói đẹp để
dâng lên trời đất và vị thần mùa màng của dân bản. 6 cặp bánh gồm 12 chiếc tượng
trưng cho 12 tháng trong năm. Những chiếc bánh còn lại xếp vào một hộp gỗ pơ mu
đậy kín lại để ăn.
Khi ăn, bà con nướng bánh trên than củi. Bánh dẻo, thơm mùi
nếp quện với mùi thơm gỗ, vị ngọt của nếp nương thật quyến rũ.
Ốc đá Suối Bàng Mộc Châu
Ốc đá ở Suối Bàng thường chỉ xuất hiện từ tháng 4 đến cuối
tháng 8, tức là vào mùa mưa, khi thời tiết ẩm ướt. Những tháng còn lại chúng
vùi mình trong những lớp lá dày hoặc nằm im dưới đất.
Về đến nhà, những con ốc được rửa sạch và đưa lên bếp luộc.
Con ốc khều ra quệt qua tí nước chấm bỏ vào miệng thấy cay cay đầu lưỡi, ốc
chạm vào răng lại thấy dòn dòn, vị ngọt mát lan dần xuống cuống họng. Cái ngon
ngọt, mát dòn của ốc đá là thế, không tanh nhưng có vị hăng, thơm của lá rừng.
Ăn ốc đá nên nhai chậm và kỹ mới thấm được vị mát lành, vị thơm độc đáo. Và
cũng chỉ ăn theo kiểu thưởng thức, không nên vì ngon, lạ mà háo hức “ăn lấy no”
như nhiều món khác.
Bê chao Mộc Châu
Cao nguyên Mộc Châu, nơi cửa ngõ Tây Bắc với thảo nguyên
xanh rộng hàng chục nghìn héc ta tuyệt đẹp, được trời phú cho kiểu khí hậu cận
ôn đới để trở thành nơi có đàn bò lấy sữa lớn nhất cả nước. Hiện nay, ở Mộc
Châu có khoảng 10.000 con bò sữa. Ở đây, bê cái luôn được giữ lại nuôi lớn để
cho sữa, còn bê đực được chế biến thành đặc sản bê chao nức tiếng.
Nguyên liệu để làm bê chao ngon nhất là bê sữa khoảng một
tuần tuổi, chưa từng ăn cỏ, nên miếng thịt bê có vị thơm và cái mềm ngọt mà bê
già tuổi hơn không thể nào có được. Trong số những món bê thường thấy như xào
lăn, hấp sả, tái chanh… thì bê chao có lẽ là món ăn được chế biến đơn giản nhất,
nhưng hương vị lại thuộc hàng đặc sản. Có lẽ bởi bê non đã sẵn cái ngon, cái ngọt,
cái thơm, nên càng bớt cầu kỳ lại càng tôn hương vị đó lên trọn vẹn.
Bê phải chao trên lửa to để thịt không ngấm mỡ. Lửa to thì
dầu phải ngập miếng thịt để tránh “sống trong, chín ngoài. Mùi thơm lựng của thịt,
mùi cay nồng của gừng, sả tỏa lan “điếc mũi”. Độ chín của gừng, sả ướp cùng thịt
bê cũng là một yếu tố để đánh giá tay nghề đầu bếp. Bê chín, gừng, sả cũng vừa
vàng ươm, thơm nức mà không khét, cháy.
Bê chao phải ăn nóng. Trút ra đĩa, mỡ vẫn còn riu riu sôi
trên những miếng thịt. Chấm thịt ấy vào bát tương sánh vàng, điểm thêm chút gừng
bằm nhỏ. Thịt vàng hườm, mềm và ngọt khó tả. Phần bì phồng lên lấm tấm trắng,
khẽ cắn vào thì thấy giòn, nhưng nhai kỹ vẫn có một chút dai vương vấn.
Thi thoảng lại có thêm những lát gừng mỏng, vàng ruộm, không cay xè mà
thơm đến ứa nước miếng.
Dưa Mèo Sơn La
Dưa mèo là giống dưa chuột quả to đến mức kỷ lục: quả to nhất
cân được 2,1kg, quả nhỏ nhất cũng nặng tới 500g. Giống có vỏ quả trơn bóng, màu
xanh sáng xen lẫn những vết sọc xanh mờ, đặc trưng của dưa chuột. Quả dài
25-30cm, đường kính quả to nhất đo được 8,5cm, ruột trắng, cùi dày, nhiều hạt.
Nhiều người được mời nếm thử đều tỏ ra thích thú. Giống dưa mèo ăn giòn, ngọt
mát có mùi thơm đặc trưng của dưa chuột.
Dưa mèo là giống dưa chuột địa phương quả to do bà con dân
tộc người H’Mông thuộc các tỉnh vùng cao Tây Bắc như Sơn La, Lai Châu, Điện
Biên…gây trồng và giữ giống từ lâu đời. Tại Sơn La, loại dưa này do bà con người
Mông ở xã Vân Hồ, huyện Mộc Châu trồng xen trong các nương ngô, nương lúa vừa để
lấy rau ăn, vừa đem bán cho khách du lịch ven quốc lộ hoặc các khách sạn, nhà
hàng để tăng thêm nguồn thu. Thường trồng vào đầu mùa mưa, tháng 2-3 để thu hoạch
cùng với ngô tháng 6-7, mỗi cây dưa mèo cho 2-3 quả, mỗi sào thường cho sản lượng
200-300 kg.
Khoai sọ Mán Mộc Châu
Gọi là Khoai sọ mán bởi nó được người Dao trồng, và cũng chỉ
có mảnh đất có người Dao sống loại củ này mới ngon. Khoai sọ mán có nguồn gốc,
hình thù, màu sắc không giống các loại khoai khác.Có khi đó là nét làm nên sự đặc
sắc. Theo nhiều người thì có mua khoai về trồng cũng không có củ, chỉ người Dao
Mộc Châu trồng mới được, và cũng chỉ người Dao một số nơi như: Chiềng Sại, Chiềng
Chung… trồng mới năng suất. Chả biết phải thế không mà đi nhiều nơi, nhìn thấy
và ăn nhiều loại khoai sọ, chẳng đâu thấy khoai sọ mán giống ở Mộc Châu. Nó
không tròn, nhỏ như khoai bon, không có màu tim tím tròn trĩnh như khoai môn.
Khoai sọ mán liệt vào loại củ dị dạng được. Nó chẳng có hình thù nào mà gọi
tên. Các mầm củ cứ đẻ ra lộn xộn thành những u, những mấu và to dần lên.
Sau khi gọt vỏ rửa sạch có thể thái miếng bằng bao diêm bỏ
hấp trong nồi cơm vừa cạn nước. cơm chín khoai cũng chín, bỏ miếng khoai nóng hổi
ra chấm lạc vừng, vừa ăn vừa xuýt xoa cảm nhận vị bùi bùi của miếng khoai vàng
ruộm. Ai thích ăn chiên cũng có thể làm như chiên khoai tây cũng ngon. Nhưng hấp
dẫn nhất vẫn xào qua khoai với mắm, muối, mì chính cho ngấm gia vị rồi cho vào
hầm xương. Khoai chín rắc thêm chút rau thơm gồm: thì là, rau mùi tàu, hành vào
và bỏ ra thưởng thức. Chỉ riêng màu vàng của bát khoai óng mỡ, lác đác mấy cọng
rau xanh đã đủ để thực khách ngây ngất. Đưa miếng khoai vào miệng, thấy vị
ngọt của nước hầm xương hòa lẫn cùng vị ngọt bùi của khoai. Giống khoai này có
đặc điểm là cực kỳ bở, nếu chọn được củ khoai ngon (không già, không non quá)
chẳng cần phải nhai, đưa vào miệng là đã tan hết rồi. Củ khoai đó, được người
Dao vùng cao nguyên Mộc Châu trồng từ lâu và được coi là một loại đặc sản rất lạ
ở đây
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét