Hai ông Cầm Trọng và Nguyễn Văn Hòa viết:
Mương Then, tên đầy đủ
là Mương Then- la- phạ- téng, hay Mường Thanh trần gian, gọi tắt
là Mường Then, địa danh gắn với các truyền thuyết về sự phát triển của người
Thái. Nơi đây được xem là "đất tổ" của nhiều ngành Thái ở Đông Nam
Á.
Ở chỗ khác, hai ông này lại viết:
Mường Lò là một mường
trong vùng Thập Châu miền Tây Bắc thế kỷ thứ XIV. Mường Lò xuất hiện từ thế kỷ
thứ XI, khi Tạo Xuông, Tạo Ngân di dân chuyển từ Mường Ôm, Mường Ai đến cư trú.
Sau đó thủ lĩnh Lạng Chượng dẫn dắt dân đi khai phá, mở mang đất đai khắp miền,
do vậy người Thái Đen vùng Tây Bắc coi mường này là đất tổ của dân tộc mình.
Trong tang lễ, có tục cúng dẫn đường đưa hồn người quá cố đi qua Mường Lò quê tổ
rồi lên mường trời về với tổ tiên, theo từng dòng họ”.
Từ hai phần trích dẫn này, nên hiểu về ý niệm
“đất tổ” của người Thái như thế nào? Đây là băn khoăn của một số
nhà nghiên cứu về Thái học, và chắc hẳn cũng là điều băn khoăn của
đông đảo những người quan tâm khác… Muốn được biết về “đất tổ” là
một nhu cầu tâm linh bình thường của con người. Người Việt có câu “chim
có tổ, người có tông”, còn người Thái thì nói “cỏ mạy mí cốc, tố
nộc mí hắng” (cây có gốc, chim có tổ)… Tuy nhiên, đối với tất cả
người Thái nói chung, người viết bài này e rằng ý niệm về “đất tổ”
sẽ chỉ mang tính tương đối…
Mường Lò.
Được biết, cuộc thiên di của tổ tiên người Thái Đen từ
vùng đất Xíp Xoong Ban Na nơi thượng nguồn sông Hồng thuộc tỉnh Vân Nam- Trung
Quốc, được kể truyền miệng từ đời này sang đời khác. Do cuộc chiến tranh sắc tộc
kéo dài liên miên giữa dân tộc Hán và các bộ tộc thiểu số khác, người Thái dạt
xuống miền núi phía Bắc Việt Nam, Điện Biên là nơi họ đặt chân đầu tiên vào khoảng
thế kỷ 7 rồi toả đi khắp vùng Đông Nam châu Á và vùng phía Nam tỉnh Vân Nam.
Hai anh em rể người Thái Đen có tên là Tạo Xuông và Tạo
Ngân, đã dẫn đoàn di cư xuôi theo sông Hồng, khi gặp dòng suối Thia, họ dẫn
đoàn người ngược dòng Thia vào khai phá đất đai. Từ núi Pú Lo nhìn xuống thấy
một vùng bạt ngàn lau lách và cây rừng giống chư chiếc chảo nấu rượu, Tạo
Xuông gọi là Lo Làu (nghĩa là Lò Rượu). Tạo Xuông dựng nhà và tổ chức
khai phá ruộng nương. Vợ Tạo Xuông đẻ con trai đặt tên là Tạo Lò. Về sau Tạo
Xuông trao quyền cho Tạo Lò cai quản vùng đất Lo Làu, người dân gọi là Mường
Lò từ đó đến nay.
Vợ Tạo Lò sinh ra được bảy người con trai. Vợ chồng ông
chia cho mỗi con cai quản một vùng đất Mường Lò. Người con út là Lạng Chượng
do sinh sau đẻ muộn không có đất lại có tới 27 người con, ông quyết định ngược
Khau Phạ sang Mường Chiến (Sơn La) lập bản, lập mường. Đi tới sông Đà thì gặp
người Khơ Mú, Lạng Chượng tham chiến rồi về sau thành rể của thủ lĩnh
quân Khơ Mú là Khum Ăm Poi, rồi lập mưu giết chết bố vợ. Tiếp đó, Lạng
Chượng dẫn quân tiến mãi đến tận Mường Theng nay gọi là Mường Thanh,
chinh phục các bộ tộc nơi đây trong đó có những người Thái đã tới đây từ thế kỷ
7 để lập mường. Sau khi Lạng Chượng mất, những con cháu của Lạng Chượng tiếp tục
cuộc thiên di về các vùng đất Lai Châu, Hoà Bình, Thanh Hoá rồi vượt núi rừng
sang Lào, Thái Lan, Miến Điện... lập nên những bản làng người Thái đen. Như
vậy, con cháu của Tạo Xuông, Tạo Ngân hiện đang có mặt ở khắp nơi trên vùng
núi phía Bắc Việt Nam và một số nước Đông Nam châu Á. Người Thái đen Việt Nam
và một số nước coi Mường Lò là đất tổ của mình, họ gọi Mường Lò là “Đin pẩu pú”
hay “Bản pẩu mương pú”, nghĩa là đất tổ tiên của người Thái đen, coi Tạo Xuông,
Tạo Ngân là thuỷ tổ của mình…
Tuy nhiên, việc này không ngăn cản các thế hệ con
cháu của những người Thái đầu tiên đến Điện Biên (số định cư ngay
lại nơi đó chứ không đi tiếp theo đoàn của Tạo Xuông, Tạo Ngân) coi
Điện Biên là đất tổ của họ. Cũng không loại trừ những người coi Xíp
Xoong Ban Na là vùng đất tổ của họ, v.v…
Nếu muốn tiếp cận sâu hơn về những vấn đề liên quan
đến lịch sử, tâm linh, tín ngưỡng từ những tháng năm đã lùi xa về
quá khứ, chỉ có cách dựa vào những người già trong vùng hoặc thông
qua các tài liệu, văn bản cổ có ghi chép về những điều đó. Những
vị được coi là am hiểu trong thời gian mười năm trở lại đây có thể
kể đến các ông như Cầm Trọng (đã mất), Vương Trung (đã mất), Nguyễn
Văn Hòa, Lò Văn Biến, Lò Văn Lả, Lô Khánh Xuyên… Các tài liệu cổ có
ghi chép lại có thể kể ra các cuốn như “Quam phanh mương”, “Xên Mương
La”, “Xồ chương tang Mương Lo”, “Tay pu xấc”, “Mo khuôn”, “Xổng phí”…
Ở Mường Lò (Nghĩa Lộ, Yên Bái), có thác nước Nặm
Tốc Tát cùng những câu chuyện về “đường lên mường trời” và việc khai
khẩn từ thời Tạo Xuông, Tạo Ngân đã được kể khá chi tiết ở phần
trên nên tôi không sẽ không đi chi tiết vào cuốn “Xồ chương tang Mương
Lo”. Phần tiếp theo đây tôi xin nêu những chi tiết khác khi tìm hiểu từ
nguyên văn tiếng Thái trong cuốn “Mo khuôn” (Vương Trung giới thiệu). Nội
dung của “Mo khuôn” dài 2971 câu, là những lời của thầy mo người Sơn La
hát trong lễ “Mo khuôn” (Lễ làm vía cho người già). Trong lễ này,
thông qua lời hát của mình, thầy mo phải đi đến khắp mọi nơi, từ
mường trời đến mường đất, để tìm lại, giành giật, răn đe, dỗ dành,
canh giữ, dẫn dụ các vía vì lí do này khác mà đang tạm thời (từ
ngày nảo ngày nào) thoát ra khỏi thân thể của người được làm lễ.
Sau khi thầy mo đưa được vía về với thân thể, con người sẽ khỏe mạnh
và sung mãn hơn để tiếp tục làm người già cho con cháu trong những
tháng năm tiếp đó… Những địa danh mà thầy mo phải đi bao gồm từ
Mường Lò đi đến khắp các mường trời, rồi xuống trần gian, tiếp tục
rong ruổi khắp các miền xuôi ngược, sang cả đất Lào… Qua đây, có thể
biết được người xưa đã nghĩ gì về hai địa danh Mường Lò và Mường
Thanh mà ta đã nhắc đến ở phần đầu bài viết này. Đoạn mở đầu của
“Mo khuôn”, sau khi nêu ra các lý do cần thiết, ta thấy thầy mo cũng
phải đi đến Mường Lò. Đoạn hát của thầy mo như sau:
Páo tì chài tấng hẻ lực lếch lực tóng pù Lạng Chượng
Háu cò mứa xu nặm tốc tạt Phỉ Pảy
Phỉ cài đáy mứa phạ
Xa cài chiệu cài chạt mứa bổn
(Dịch: Làm sạch cái chài có chuỗi chân chài bằng
đồng và sắt của ông tổ Lạng Chượng/ Ta về gội nước thác rơi nơi Ma
Đi Lại/ Ma bắc thang về trời/ Người Xá dăng cầu mây cầu song về mường
Bôn- câu 80-
83 sách đã dẫn).
Thác nước “đường ma đi lại” nhắc ở đây chính là
thác Nặm Tốc Tát. Tiếp đó thầy mo đi mãi và cũng thấy có một cánh
đồng Lò (Mường Lò) ở trên trời: Háu cò tốc tồng Ló mướng Phạ (Ta đã đi đến cánh đồng Lò trên
mường Trời- câu 359 sđd). Cánh đồng này được miêu tả là có
nhiều hoa lá đẹp tươi, trai thanh gái đẹp nườm nượp bên nhau tỏ tình…
Đây là nơi hồn vía của con cháu Tạo Xuông- Tạo Lò trở về quây quần
vui chơi sau khi hết hạn ở trần gian: Mướng lực Xuống lực Ló má ỉn (Mường mà con cháu của [Tạo]
Xuông, của [Tạo] Lò về quây quần vui chơi- câu 1849 sđd)… Sau
khi gom góp, dẫn dụ được các hồn “thất lạc, vãi vương” trên mường
Trời thì thầy mo đưa các hồn đó nhanh chóng trở về trần gian. Dù đã
ở trần gian, đường “trở về” cũng xa xôi, lắm chặng. Và “trở về” nơi
đâu? Ta nghe thầy mo hát tiếp: Háu cò tốc tỉn ham pà mạy mướng tàn bở hỏ, Pảy mướng
Ló chua pảu (Ta
bước chân qua rừng cây xứ người nhiều lá cong queo/ Đi về Mường Lò tổ
tiên- câu
1971& 1972 sđd).
Mường Thanh?
Đã có hàng trăm bài viết từ trước đến nay đều
cùng nêu rằng, tên gọi Mường Thanh là
do đọc chệch từMường Then mà ra. Thực ra điều này chưa hẳn
đã đúng.
Về mặt ngôn từ, người Thái sẽ không có sự nhầm
lẫn giữa hai chữ Thanh và Then. Trong cách
thể hiện bằng chữ Thái, chữ Then được
ghép vần là ke- tho- no, và chữ Thanh được phát âm đúng là Theng, và được
ghép vần là ke- tho- ngo. Với hình thức văn bản viết, chữ no và chữ ngo có hình thức hoàn toàn khác
nhau. Vậy nên sự nhầm lẫn do hình thức văn bản viết gây ra là điều
khó xảy ra. Về cách phát âm, người Thái cư trú ở những địa phương
khác nhau thì có những đặc điểm riêng. Tuy nhiên dù ở đâu họ cũng
hoàn toàn không có hiện tượng chuyển phụ âm vần N thành NG (hiện
tượng này là phổ biến với người Việt ở Trung và Nam Bộ).
Cho đến nay, hình như chưa có một văn bản nào nêu
dẫn chứng cụ thể về sự “nhầm lẫn” này.
Nhiều cuốn sách chữ Thái cổ (tôi đã xem) đều luôn
ghi tên Mường Thanh (nguyên
văn chữ Thái làmương Theng) chứ không thấy ở
đâu có ghi là Mương Then. Trong bài “Mo khuôn” dẫn trên đây cũng
có đoạn (trên đường quay lại Mường Lò):
Háu cò thỏ hứa hưn nặm Nùa hỉn cổm
Hưn nặm Nhốm xái kè
Háu cò tốc tỉn ham pà mạy mướng tàn bở lưởng
Mứa Mướng Thảnh tì quang
Thảnh tơ mí bò cửa
Thảnh nửa mí bò chứn…
(Dịch: Ta chống thuyền theo sông Nủa đá trơn/ Theo
sông Nậm Rốm cát cứng/ Ta cùng bước chân qua rừng cây lá vàng của
mường người ngoài/ Về Mường Thanh nơi rộng rãi/ [Mường] Thanh dưới có
mỏ muối/ [Mường] Thanh trên có mỏ chì- câu 2301- 2307 sđd).
Và, theo một bài viết của GS sử học Lê Văn Lan, từ
năm 1841, Mường Thanh cũng đã là trung tâm của một liên kết lịch sử Việt-
Thái, ở thế kỷ 18. Ấy là lúc mà phong trào khởi nghĩa nông dân Hoàng Công Chất,
từ giữa đồng bằng châu thổ sông Cái (sông Hồng) chuyển những hoạt động chiến đấu
lên đất Mường Thanh, từ năm 1751. Khi ấy, nơi đây đang bị nạn “giặc Phẻ- giặc Hả”
đến hoành hành. Chúng xây một tòa thành, gọi là “Xám Mứn” (Tam Vạn) ở phía nam
cánh đồng Mường Thanh làm nơi hùng cứ. Thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Công Chất, nhận
lời cầu cứu của các thủ lĩnh người Thái, đã điều quân đến đánh tan bọn “giặc Phẻ-
giặc Hả”. Sau đó, cùng đồng bào địa phương- gồm cả người Thái, người Lự, người
Lào… xây thêm một tòa thành lớn nữa- vẫn trên cánh đồng Mường Thanh- làm căn cứ
của nghĩa quân, gọi là “Thành Chiềng Lê” (thành Bản Phủ), kéo dài cuộc khởi
nghĩa đến tận năm 1769. Thời gian này được nhắc trong “Mo khuôn” như sau:
Mướng Thảnh quang đỉn piếng phạ tằm
Hạp nắc phai đẹt họn hặn cằm táng piếng
Dết viếng bo mí mạy
Mứa vay chau phèn pựn cò hạc bo phắng
Kẻo chằng pẳn đỉn hơ khút lẹo khút
Khút đỉn đẳm dết tèn
Pan đỉn kèn dết viếng
(Dịch: Mường Thanh rộng- đất bằng, trời thấp/ Gánh
nặng đi dưới nắng cả ngày trên đường bằng/ Làmviềng mà
không có cây cối/ Về thưa với chủ mường mà chủ không nghe/ [Người]
Kinh chia phần đất cho đào, cứ phải đào/ Đào đất đen làm thành/ Đắp
đất cứng làm lũy- câu 2339- 2345 sđd).
Mường Thanh luôn được gọi là mường “Thẻn đả phạ
tành” (Trời tạo dựng). Câu mở đầu của bản “Quám xon côn” (Răn dạy con
người) cũng khẳng định con người trên trần gian đều là do “thẻn đả
phạ tành”. Mường Thanh rộng lớn và giàu đẹp, nhưng theo “Mo khuôn” thì
khi đưa hồn về đến Mường Thanh, thầy mo qua hết địa danh này đến địa
danh khác thuộc đất Mường Thanh, sau đó lại dẫn hồn xuôi về Mường
Lò…
Nếu để ý tìm một công trình tâm linh ở Mường Thanh,
thầy mo cũng có chỉ cho ta thấy một nhà thờ nhỏ ở “ven” của Mường
Thanh:
Chau bài na mứa xù Nỏng Búa
Mí thiểng xển tể phạ
Xíp cằm ha quái đắm lống tể
Chọm tể lẹo phỉ phạ hạc lống
(Dịch: Chủ quay mặt về phía Nỏng Búa [Ao Sen]/ Nơi
đó có nhà thờ nhỏ tế trời/ Ngày mười giết trâu đen để tế/ Tế rồi
ma trời xuống nhập, xuống ăn- câu 2367- 2370 sđd).
Nói đi thì cũng phải nói lại, trong bài viết của
GS Lê Văn Lan cũng nêu rằng tên gọi Mường Then được chuyển thành Mường
Theng (Mường Thanh). Nếu như có sự nhầm lẫn hoặc gán ghép cho rằng
Mường Thanh từng là Mường Then thì
sự gán ghép đó chỉ có thể đến từ người bên ngoài cộng đồng người
Thái. Hoặc sự nhầm lẫn đó cũng bắt nguồn từ cách định danh “Mường Thanh là Mường- Then- Đa- Pha- Tảnh”, dần
dần do lược bớt các từ phía trước và phía sau mà “Mường Thanh” được
chuyển thành “Mường Then”…
Theo tâm thức, người Thái không bao giờ muốn đặt một
cái gì thuộc về sở hữu, thuộc về hiện hữu xung quanh mình gắn với
từ Then. Thậm chí,
ban đêm nếu nằm mơ thấy mình được bước chân đến nhàThen, được cày bừa ở ruộng Then, được nói
chuyện với xao Then (con
gái mường Trời) thì họ sẽ cho đó là điềm gở. Nghĩa là, mường Then luôn được coi là một thế giới
khác với trần gian…
Mường Quy Chú Pu Quai.
Người Thái ở tỉnh Nghệ An được chia thành 2 nhóm
Tay Mương và Tay Thanh, có sự khác nhau khá rõ rệt về ngôn ngữ, trang
phục và phong tục tập quán. Phụ nữ người Thái Nghệ An đều mặc váy
thêu, khác biệt với váy không thêu của phụ nữ vùng Tây Bắc. Theo thông
tin tổng hợp trên từ điển mở Wikipedia (chỉ mang tính tham khảo), các
nhóm người Thái ở Nghệ An được xếp vào loại “chưa được phân định rõ
ràng”- đơn giản chỉ vì nhiều nơi người ta đã quá quen với cách phân
định 2 nhóm Thái Đen và Thái Trắng. Cũng theo thông tin từ nguồn trên,
người Thái ở Nghệ An chiếm 19% trong tổng số người Thái ở Việt Nam,
đứng thứ 2 sau Sơn La (Sơn La: 36,9%; Điện Biên: 12%; Yên Bái: 3,4%).
Cũng như người Thái ở Mường Lò, người Thái nhóm
Tay Mương ở mường Quy Chú- Pu Quai (nay là các huyện Qùy Châu và Quế
Phong của tỉnh Nghệ An) luôn coi núi Pu Quai (Núi Trâu) là nơi có đường
lên trời của hồn người chết. Bài mo “Xổng phí” (Đưa hồn về trời)
của người Thái Nghệ An dài đến 4034 câu. Được biết, từ thời thuộc
Minh (1407- 1427) người Thái Nghệ An đã xây dựng Đền Chín Gian ở núi
Pu Quai, nay thuộc địa bàn xã Châu Kim, huyện Quế Phong. Đền thờ này
được dựng lên để thờ Trời (Pò Then), cầu mong bình an và sung túc cho
“chín mường hạ giới”- là những mường người Thái ở trong tầm ảnh
hưởng của Đền Chín Gian. Đền Chín Gian được coi là kỳ tích của
người Thái Nghệ An, bởi con số 9 là con số thiêng của người Thái,
thường được gắn với quyền năng của Trời. Và khi Đền Chín Gian đã
được dựng lên, thì ở các mường hạ giới của người Thái không thể có
ngôi đền thứ hai, bởi vì nếu có thì chỉ được coi là một công trình
sao chép… Với một bề dày lịch sử như vậy, xung quanh Đền Chín Gian
đã tồn tại rất nhiều câu chuyện kì bí được truyền tụng trong dân gian,
trong đó có chuyện vinh danh “Căm” cho người trụ trì. Đây là câu chuyện
mang tính thuyết phục tạo nên sự linh thiêng của Đền Chín Gian. Theo
đó, nếu vị trụ trì (hoặc là ông đẳm gốc
của mường) sau thời gian 12 năm trụ trì mà trong vùng không xảy ra
thiên tai loạn lạc hoặc chết chóc bất thường thì trụ trì đó được
phong “Căm” (danh hiệu Vàng). Ở thời kỳ thịnh nhất, danh hiệu “Căm” ở
Đền Chín Gian được tiếp nối liên tục trong 3 lần phong, nghĩa là 36
năm liên tục người dân được sống trong bản mường thanh bình no ấm…
Vậy ra, những nơi được người Thái coi là “đường lên
trời” của các hồn vía thì được coi là “đất tổ” chăng? Theo ý niệm
của cá nhân tôi cũng không hẳn như thế! Tôi chỉ là một cá nhân người
Thái thuộc nhóm Tay Mương ở Nghệ An. Tôi nói “ý niệm” ở đây với
nghĩa là những gì tôi cảm thụ, cảm nhận từ gia đình, từ cộng đồng
và tổ tiên của mình ở trong bản mường mình chứ không mang tính đại
diện cho người Thái ở các mường khác; và tôi cũng không quan tâm đến
“ý niệm” của người Việt, người Lào hay Trung Quốc…
Trong số các bản cư trú ở mường quê tôi, có một
bản giữ vai trò trung tâm được gọi là chiềng. Và, ví như trong một bản nọ có nhà ông
A, ông A vừa mất và được người thân đón vía về ngự ở gian thờ chính
trong nhà (chong hỏng); lúc này vía ông A có nhiệm vụ
trông coi phù hộ cho con cháu xa gần, nhưng phạm vi chính là trông coi
phù hộ bên trong ngôi
nhà sàn. Vía của bố ông
A trước đó ngự trên gian thờ chính, nay di chuyển xuống dưới sàn, có
nhiệm vụ phù hộ cho con cháu xa gần, nhưng phạm vi chính là cả ngôi nhà sàn (cả trên nhà
và dưới sàn) tính từ giọt gianh trở vào. Vía của ông ông A nay trông coi vườn tược,
ruộng nương… tính từ hàng rào trở vào. Vía của cụ ông A
đến ngự ở nhà thờ chung của bản, trông coi phạm vi trong bản. Lúc
này, vía của kị ông
A sẽ về ngự ở nhà thờ chung củachiềng… Như vậy,
các vị tiên tổ của các dòng họ khác nhau ở trong mường đều ngự
chung ở nhà thờ chung của chiềng để
phù hộ cho con cháu trong mường (có thể ở các mường khác cũng na ná
như thế hoặc ít hoặc nhiều)… Do mô hình này, mà người Thái ở mường
quê tôi không có tục thờ tổ tiên riêng từng dòng họ, mà một khi đã
thờ là thờ chung cả mường… Đến đây có thể nảy sinh thắc mắc rằng,
vậy thì sao vía các vị còn theo đường lên trời làm gì v.v… (Vì bài
viết đã dài nên tôi không trình bày ở đây, mong sẽ có một dịp khác).
Người Thái có câu “mướng lớ cờ mí thăm lạn, ban lớ
cờ mí cốn hản”, nghĩa là: “Mường nào cũng có hang thiêng, bản nào
cũng có người thực tài”- câu này thể hiện sự tự tôn ngay trong từng
bản mường người Thái. Người Thái quê tôi tự gọi tộc danh mình là Táy, người cùng
dân tộc Thái gọi nhau là Táy háu. Từ Táy sử
dụng ở đây không mang nghĩa là Thái mà
mang nghĩa là dân tộc, cộng đồng. Với người không phải dân
tộc Thái, người Thái gọi họ là Táy pườn, nghĩa là “cộng đồng/ dân tộc bên
ngoài”; người Kinh được gọi là Táy Kẻo, người Lào được gọi là Táy Láo v.v…
Người Thái chẳng ai xưng mình là “con trời”, nhưng ý
niệm “trời tạo dựng” và xếp đặt đều được nêu và bám chắc
trong những truyện cổ như “Truyện xuống mường”, “Răn dạy con người”
vừa là hiện hữu cả với con người lẫn bản mường, thiên nhiên, núi
non, cây cối. Vậy nên, đối với người Thái ở quê tôi, đối với gia
đình, họ hàng và bản mường chúng tôi, đã mang sẵn ý niệm rằng con
người do cha mẹ sinh ra nhưng bản thể tâm linh đã được đúc kết ở trên
cõi trời, sau khi chết thì sẽ đưa hồn vía của mình quay về cõi đó.
“Đường lên trời” dù là ngọn núi Pu Quai ở trung tâm
của “chín mường hạ giới”, hay là Nặm Tốc Tát tận Mường Lò xa xôi,
đều chỉ là chặng khởi đầu của hành trình về với cõi vĩnh hằng
của tổ tiên!
Các nguồn tham khảo:
- Các sách chữ Thái cổ và phiên âm đã sưu tầm và
lưu trong máy tính cá nhân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét