Đàn Tính Tẩu của dân tộc Thái (Văn Hóa Tây Bắc)

Đàn Tính Tẩu.
Đàn Tính Tẩu (hay Đàn Tinh Tẩu) (còn gọi là Đàn Tính hay Đàn Tẩu) là nhạc cụ khảy dây được dùng phổ biến ở một số dân tộc miền núi tại Việt Nam như người Thái, người Tày, người Nùng,… Ở vài vùng thuộc Trung Hoa, Lào, và Thái Lan người ta nhận thấy cũng có nhạc cụ này. Trong tiếng Thái, Tính có nghĩa là Đàn, còn Tẩu  Bầu (quả Bầu), dịch ra tiếng Việt, Tính Tẩu có nghĩa là Đàn Bầu. Để khỏi nhầm lẫn với loại Đàn Bầu của người miền xuôi, nhiều người gọi Tính Tẩu Đàn Tính nhưng nếu dịch ra “Đàn Đàn” thì sai. Do đó chỉ cần hiểu Đàn Tính là cách gọi tắt của Đàn Tính Tẩu.

Đối với dân tộc Thái, Tính Tẩu là nhạc cụ chính, dùng để độc tấu, đệm hát và chơi giai điệu múa. Các chàng trai người Thái vừa đàn Tính Tẩu vừa múa bằng nhạc cụ này. Khi đệm hát, Tính Tẩu thường chơi giai điệu của lời ca. Trong nhạc múa Tính Tẩu có những bài bản riêng.
Tính Tẩu thuộc bộ dây, âm vực có thể đạt tới 3 quãng tám. Tuy nhiên người diễn chỉ sử dụng những âm trong vòng 2 quãng tám và một vài âm hơn nữa.

Tính Tẩu có những bộ phận chính như sau:
Bầu vang (bộ phận tăng âm): làm bằng nửa quả bầu khô (cắt ngang). Kích cỡ bầu vang có thể thay đổi tùy theo quả bầu lớn nhỏ, song đường kính thường tư 15 đến 25 cm. Để có độ vang, âm sắc chuẩn người ta thường chọn quả bầu tròn và dày đều để làm bầu vang. Mặt đàn thường làm bằng gỗ cây ngô đồng xẻ mỏng khoảng 3mm. Trên mặt đàn có khoét 2 lỗ hình hoa thị để thoát âm (trước kia 2 lỗ hoa thị được khoét ở phía sau bầu đàn). Ngựa đàn tương đối nhỏ nằm trên mặt đàn.
Cần đàn: bằng gỗ, thường là gỗ dâu hay gỗ thừng mục, nhẹ và thẳng. Cần đàn dài khoảng 9 nắm tay của người chơi đàn. Theo kinh nghiệm dân gian, “số đo” cỡ nào thì hợp với cỡ giọng hát của người có số đo ấy. Phần dưới của cần đàn xuyên qua bầu vang, còn phần trên cùng là đầu đàn uốn cong hình lưỡi liềm hoặc đầu rồng, đầu phượng … Mặt cần đàn trơn, không có phím như đàn tam. Hốc luồn dây có 2 hoặc 3 trục dây.
Dây đàn: trước đây làm bằng tơ xe, nay là nilon. Tính Tẩu có loại 2 dây và loại 3 dây tùy theo từng vùng và từng chức năng âm nhạc. Loại mắc 2 dây phổ biến ở Thái, Tày, thường được chỉnh cách nhau 1 quãng bốn đúng hay quãng năm tùy theo hàng âm của giai điệu hoặc bài nhạc múa. Loại có 3 dây thường do người Tày sử dụng. Họ thêm 1 dây trầm giữa 2 dây kia. Âm thanh của dây trầm thấp hơn dây cao 1 quãng tám đúng. Loại 3 dây được gọi là Tính Then (Đàn Then) thường dùng trong nghi lễ Then để phân biệt với loại 2 dây là Tinh Tẩu dùng để đệm hát và múa.



Tính Tẩu có âm sắc êm dịu, thanh thoát. Khi phát ra âm cao nó gần giống với tiếng Đàn Tam. Lúc phát âm trầm nó cho người nghe cảm giác hơi mờ ảo.
Theo cách đánh đàn xưa, người diễn không dùng que khảy mà chỉ khảy bằng ngón tay trỏ của tay phải. Ngón cái và giữa giữ cần đàn ở nơi gần sát bầu đàn. Ngón trỏ khảy xuống và hất lên luân phiên khi chơi giai điệu nhanh. Còn nếu giai điệu chậm thì ngón trỏ chỉ khảy xuống.
Kỹ thuật tay phải gồm có ngón vê, ngón phi và đánh âm nền… Riêng về tay trái gồm có các thế bấm như ngón rung, ngón vuốt, ngón vê, ngón phi, ngón luyến và âm bội.


Trong thập niên 1970, một số nghệ nhân đã thể nghiệm cải tiến Đàn Tính Tẩu bằng cách lắp thêm dây vào cần đàn (khoảng 4, 5 dây). Do yếu tố này họ phải làm cần đàn và bầu đàn lớn hơn khiến ngón bấm khó chính xác. Một số người lại dùng que khảy thay đầu ngón tay. Kết quả âm sắc không giống Đàn Tính Tẩu gốc mà lại giống Đàn Banjo (loại alto). Một số người khác thay gỗ để làm bầu đàn, âm thanh phát ra đanh và khô không đẹp như bầu đàn quả bầu khô. Nhìn chung, những cách cải tiến kể trên không gặt hái thành công.
Dưới đây mình có các bài:
– Đàn Tính – nhạc cụ độc đáo của người Tày
– Nhạc cụ cổ truyền của nhóm dân tộc người Tày – Thái
– Người 60 năm công phu chế tác đàn tính tẩu
– “Vua” tính tẩu 12 dây
Cùng với 3 clips tổng thể văn hóa Đàn Tính Tẩu để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.

Đàn Tính-nhạc cụ độc đáo của người Tày

Cây đàn Tính (còn gọi là Tính tẩu) là loại nhạc cụ tiêu biểu của đồng bào dân tộc Tày.
Đàn Tính là loại đàn dây, gồm ba bộ phận chính: bầu đàn, cần đàn và dây đàn. Để có được cây đàn Tính hay, quan trọng nhất phải tìm được bầu đàn tốt. Bầu đàn làm bằng nửa quả bầu khô.
Cần chọn quả bầu già, tròn đều, vỏ không bị nám hoặc lồi lõm thì đàn mới có âm vang chuẩn. Cần đàn được làm bằng gỗ, thẳng và nhẹ, một đầu xuyên qua bầu đàn, đầu còn lại uốn cong hình lưỡi liềm.
Bầu của đàn Tính được làm bằng nửa quả bầu khô.

Chế tác đàn Tính đòi hỏi người thợ phải kiên trì, có đôi bàn tay khéo và hiểu biết về đàn Tính.
Cần đàn càng dài thì độ vang càng lớn. Đàn Tính thường có 3 dây được làm bằng tơ se, tượng trưng cho cha, mẹ và đất nước. Ngày nay, hầu hết các hoạt động văn hóa của người Tày như: cưới xin, mừng thọ, liên hoan văn nghệ và đặc biệt là hát Then… đều có sự xuất hiện của cây đàn Tính.

Nhạc cụ cổ truyền của nhóm dân tộc người Thái-Tày

Nhạc cụ của nhóm dân tộc ngôn ngữ Tày- Thái độc đáo và đặc sắc. Tiêu biểu nhất phải kể đến cây đàn tính của người Tày, Trống tang sành của người Sán Chay, Khèn bè của các tộc người Thái, Lào, Lự . Ngoài ra, còn có nhị, đàn bầu, thanh la, não bạt, chuông, trống, khèn sáo,… một số được dùng trong ca hát , một số được dùng khi làm then, dùng trong tang lễ…
Đàn tính là nhạc cụ tiêu biểu, gắn liền với đời sống tinh thần của các tộc người Tày, Nùng, Thái. Đàn tính có từ bao giờ, không ai còn nhớ. Người ta chỉ biết rằng, thuở ấy từ xa xưa lắm, có anh chàng tên là Xiên – Cân đã ngoài ba mươi tuổi mà vẫn chưa lấy được vợ. Một hôm đi ra ngoài suối lấy nước khi nhìn xuống mặt nước anh giật mình vì đã già đi nhiều quá. Buồn lo cho sự hẩm hiu của duyên số, Xiên – Cân chỉ còn biết đánh bạn với đàn hát. Anh bèn lên trời xin nàng Dâu hạt giống cây dâu về trồng ở dưới trần. Thấm thoát ngày tháng cây dâu đã lớn, cành lá tốt tươi và đàn tằm của anh cũng miệt mài thả tơ.
Khi đã có cây tơ và bầu, Xiên – Cân lên rừng kiếm cây “Khảo hương” làm cần đàn và sừng đàn. Anh mắc vào cây đàn của mình 12 dây tơ. Mỗi khi buồn phiền anh lại lấy đàn ra gẩy. Nghe tiếng đàn của anh, muôn loài đều say mê, cũng nhiều con héo hon đau khổ vì tiếng đàn. Thấy vậy Bụt đã bắt đã bắt Xiên – Cân cắt đi 9 dây, chỉ còn cho phép để 3 dây. Cây đàn 3 dây bằng tơ này chính là cây đàn tính của người Tày bây giờ.


Cây đàn tính trong âm nhạc then giữ vị trí và vai trò quan trọng. Nó vừa là dẫn dắt, vừa là đệm nhưng đồng thời cúng là một giọng hát thứ hai, bổ sung cho giọng hát nghệ sĩ diễn xướng. Chính đàn tính với phần việc của nó đã góp phần làm hoàn chỉnh những cấu trúc làn điệu âm nhạc then.
Đàn tính thuộc đàn họ dây. Khi đánh đàn, dùng ngón tay trỏ của tay phải để gảy. Nó được làm bằng quả bầu cắt đi 1/3 và cần đàn. Kinh nghiệm dân gian mà sau này như một công thức cho tỷ lệ bầu đàn và cần đàn là “slam căm tẩu, cẩu căn càn” (tức là chiều rộng mặt bầu được đo bằng ba nắm tay, chiều dài cần đàn là chín nắm tay). Đàn gồm ba dây, dây thấp nhất lại là dây giữa, luôn luôn thấp hơn dây cao nhất một quãng 8. Có hai kiểu lên dây, quãng 5 (tăng nặm), quãng 4 (tàng bốc). Tên gọi của các dây như sau: Dây cao gọi là Tiền dây, thấp gọi là Hậu, dây trầm ở giữa là Trung. Cách lên dây đàn cũng có những quy định như sau: Khi đang đàn ở “táng nặm” (quãng 5) muốn đổi sang “tàng bốc” (quãng 4) hoặc ngược lại, thì chỉ có thể điều chỉnh dây hơi lên hoặc xuống chứ không bao giờ được điều chỉnh dây Tiền.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, dù xã hội đã nhiều thay đổi, nhưng đến nay, cây đàn tính vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tình cảm, trong tâm hồn người Tày, Nùng. Huyền thoại xưa về cây đàn của Xiên – Cân tuy đã bị Bụt bắt cắt 9 dây, song sức mạnh chinh phục lòng người của nó vẫn còn sống mãi với thời gian, hoà cùng với các làn điệu then tạo thành bản sắc riêng của cư dân thung lũng.

Nghệ nhân Nông Văn Nhay tỉ mỉ làm từ việc lên dây, thử dây và đặc biệt là việc thử âm của chiếc đàn. (S.N)

Với đồng bào Thái, tính tẩu là nhạc cụ không thể thiếu trong những đêm xòe, những ngày hội chay trong các nghi lễ của các ông Mùn. Nghệ nhân dân gian Nông Văn Nhay, người Thái ở xã Mường So, huyện Phong Thổ, Lai Châu đã có gần 60 năm nghiên cứu, nghiền ngẫm cây đàn tính tẩu.
Mỗi năm ông làm ra từ 200 – 300 cây đàn, hầu hết đều được mọi người ở khắp nơi nghe tiếng đến mua. “Người Tày, Nùng cũng có đàn tính tẩu, nhưng tính tẩu của người Thái có đặc trưng riêng, cả về cấu tạo lẫn âm thanh. Cây đàn của người Tày, Nùng chỉ có 3 dây, còn người Thái có 2 dây. Vật liệu làm nên chiếc đàn tính tẩu rất đơn giản, dễ kiếm nhưng lại có yêu cầu rất cao”- ông Nhay cho hay.
Theo ông Nhay, đàn tính tẩu có các bộ phận chính là bầu đàn làm bằng nửa quả bầu khô, cần đàn thường làm bằng gỗ dâu, dây đàn thì làm bằng tơ xe. Làm đàn tính tẩu khó nhất là tìm quả bầu. Phải chọn được quả bầu không quá to, cũng không quá nhỏ, phải già, hình dáng bên ngoài phải tròn đẹp, vỏ dày, gõ vào phải kêu đanh, như thế đàn mới có âm sắc chuẩn.


Cần đàn (căn tính) làm bằng các loại gỗ dẻo được đẽo công phu, đánh giáp cho bóng. Dùng cây thông đất, cây mỡ, cây xoan hoặc là cây ba gạc là tốt nhất, nhưng phải chặt ngày cuối tháng thì mới không có mọt khoét. Gỗ làm mặt đàn thường được làm bằng gỗ cây vông, có độ dày phù hợp để tạo tiếng vang. Mặt đàn đồng thời là nơi thoát âm, nên nghệ nhân ngoài việc chọn gỗ tốt thì khi khoan lỗ thoát âm cũng cần có những kinh nghiệm phù hợp. Đáy bầu được khoét 4 lỗ để giữ âm hưởng sao cho đều nhau. Mặt đàn (tép tính) được khoét 2 lỗ nhỏ để thoát âm.
Cuối cùng là công đoạn lắp dây đàn. Có hai con dây làm bằng dây cước, trước thì làm bằng dây tơ, tơ phải là tơ mịn, tơ cuối, lấy từ tơ tằm ra, thậm chí có cả tơ lụa lấy sợi càng nhỏ càng tốt sau đó mới se lại.
Tính tẩu có âm sắc êm dịu, thanh thoát, khi thì cao vút, khi thâm trầm. Khi sử dụng, người ta có thể dùng một đoạn tre hoặc ngón trỏ của tay phải để gẩy đàn. “Người làm đàn giỏi không chỉ có đôi tay khéo léo mà còn phải có khả năng cảm thụ âm nhạc, có kinh nghiệm chơi đàn. Nên để học được cách làm đàn, người học thường phải mất từ 10 năm trở lên. Cho nên người biết làm đàn cũng không nhiều, nhưng ai đã biết làm, sẽ làm rất giỏi”- ông Nhay chia sẻ.

Nghệ nhân Dương Thục với chiếc đàn tính tẩu 12 dây.

“Để kiếm một cây đàn tính tẩu thì không hề khó, nhưng đi khắp Việt Nam thì không thể tìm đâu ra cây đàn tính tẩu 12 dây như ở vùng núi trùng điệp này được.” Đó là khẳng định của ông Hoàng Văn Tạ, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Kạn nói về chiếc đàn tính “độc nhất vô nhị” của nghệ nhân Dương Thục.
Kỳ nhân phố núi
Theo lời giới thiệu của ông Hoàng Văn Tạ, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Kạn, chúng tôi men theo con đường dẫn lên hồ Ba Bể và dừng lại ở thị trấn Chợ Rã, nơi được coi là cái nôi văn hoá cổ xưa nhất của người Tày nước ta. Không khó lắm để tìm đến nhà nghệ nhân Dương Thục, vì ở đất Chợ Rã này ai cũng biết đến ông như một vị “vua” của nhạc cụ hát then truyền thống nổi tiếng Tây Bắc.
Ngôi nhà sàn mà nghệ nhân Dương Thục đang ở khá cổ kính, khác biệt với những ngôi nhà sàn cách tân hiện thời. Từ trong ngôi nhà ấy, tiếng hát lúc trầm lúc bổng hoà cùng tiếng đàn tính làm vương vít lòng người. Hôm ấy, nghệ nhân Dương Thục đang dạy nhạc miễn phí cho hơn chục thanh niên Tày bản địa.
Với người Tày ở Bắc Kạn, hầu như tất cả già trẻ lớn bé đều biết đến “vua” tính tẩu Dương Thục. Ông nổi tiếng cũng một phần nhờ cuộc thiên di mười mấy năm trời khắp các bản làng. Ở đâu có người Tày, ở đấy có bước chân Dương Thục. Sau những cuộc rượu, tiếng đàn tính lại “thay lời muốn nói”. Nhờ vậy, với bà con người Tày bản địa, nghệ nhân Dương Thục như ruột thịt máu mủ.
Nghệ nhân Dương Thục còn là “nhà phát minh” vĩ đại của người Tày ở Bắc Kạn. Sau những lần đi truyền bá tiếng đàn tính, lời hát then, ông còn giúp bà con chế tạo bánh xe nước cách tân, hoặc làm ra những chiếc máy tẽ ngô. Ở thị trấn Chợ Rã, người dân còn coi ông như một thủ lĩnh tinh thần. Từ việc cúng bái ma chay, hiếu hỉ họ đều mời ông chủ trì như một thầy “cầm đầu ma”.
Đàn tính lạ nhất Việt Nam
Nghệ nhân Dương Thục khẳng định: “Từ trước tới nay, cả nghìn đời rồi không ai có thể chế ra được chiếc đàn tính 12 dây như của tôi mà âm thanh kết hợp trong lời hát then không hề thay đổi”. Quả thật, cây đàn tính tẩu 12 dây của Dương Thục có thể thay cho 3 cây đàn tính khác mà bài hát then vẫn rất có hồn.
Hát then với người Tày không khác mấy so với hát dân ca quan họ Bắc Ninh. Từ lời hát đến điệu nhạc phải thể hiện được tâm hồn con người và trở thành đặc sản tinh thần không thể thiếu của Tây Bắc. Thế nhưng, với những người trẻ thì hát then không được tiếp nhận nên Dương Thục đã nghĩ ngay tới việc phải chế ra cây đàn lạ đa năng để thu hút sự tò mò từ chính những người trẻ.
Hơn 10 năm làm nhạc công cho Đoàn nghệ thuật Bắc Thái, lại có thâm niên mấy chục năm nghiên cứu nhạc cụ dân tộc nên chỉ sau một thời gian không dài chiếc đàn tính 12 dây được ra đời. Tuy nhiên, sau nhiều lần thử nghiệm thấy tiếng đàn không thật chuẩn nên ông buộc phải nghiên cứu lại.
Trong một lần đi sưu tầm lời bài hát then cổ ở bản Tày Pác Ngòi, Dương Thục đã may mắn nghe được truyền thuyết về cây đàn tính 12 dây cổ xưa. Lời then kể rằng, thủa xưa có anh chàng tên là Xiên Câm, tuổi đã ba mươi mà vẫn chưa lập gia đình. Sống một mình mãi chàng buồn mới lên Ngọc Hoàng xin làm cây đàn tính để khuây khỏa, người trời cho giống bầu làm bầu đàn, cho cây gỗ mộc hương làm thân và dây tơ làm dây tính, chàng Xiên Câm đã làm ra cây đàn tính 12 dây từ những vật liệu đó.
Khi tiếng tính cất lên, người dân quên ngủ, quên cả vụ mùa, bỏ bê công việc. Biết chuyện Ngọc Hoàng mới sai Pụt Luông xuống cắt đi 9 dây đàn để người dân thoát khỏi sự mê mẩn mà quay về với ruộng nương, đồng áng. Lời then kể về 12 dây đàn rất hay: Dây một lên đường bách hạc/Dây hai nam bắc ngũ âm/Dây ba như tiếng ong kéo mật/Dây bốn ngân thánh thót ngũ canh/Dây năm ra tiếng then tàng nặm/Dây sáu cảnh ngũ sắc hoa xuân/Dây bảy vọng thanh tân mai túc/Dây tám ngân cửu khúc cười vui/Dây chín ngân mọi người buồn bã/Dây mười ngân rời rã chân tay/Dây mười một như lời tiên nói/Dây mười hai như nhòi ới thương.
Dựa vào những lời trong bài hát về đàn tính tẩu 12 dây, Dương Thục đã chế ra một đàn tính tẩu kỳ diệu, mỗi dây đều có những âm thanh khác nhau phù hợp với từng tâm trạng, hoàn cảnh đúng như trong truyền thuyết.

Bảo vật Tây Bắc
Nghệ nhân Dương Thục cho hay: “Làm ra được cây đàn tính 12 dây thì vô cùng khó, đặc biệt là việc tìm bầu đàn và dùi lỗ luồn dây. Với đàn tính 2, 3 dây thì việc chọn bầu rất đơn giản nhưng thêm 9 dây nữa thì thật nan giải. Chỉ cần nghe tin ở đâu có quả bầu to là tôi bỏ ăn bỏ ngủ đi tìm. May mắn, cuối cùng cũng tìm được bầu đàn như ý muốn”.
Sau một thời gian mầy mò chế tạo chiếc đàn tính cũng hoàn thành. Ngày ông đem đàn xuống thị xã đánh thử, cả hội trường lặng im phăng phắc lắng tai nghe những âm thanh vừa thánh thót lại trầm ấm, có lúc luyến láy đến lạ lùng. Buổi ca hát dù đã ngừng nhưng cả đoàn người chẳng ai bảo ai cứ theo chân Dương Thục muốn được cầm vào cây đàn tính, muốn được nghe mãi thứ âm thanh dìu dặt kia.
Ngay cả Bảo tàng tỉnh Bắc Kạn, nghe tin nghệ nhân Dương Thục chế tạo được đàn tính tẩu 12 dây cũng ngỏ ý mua giá cao để trưng bày cho bà con chiêm ngưỡng. Cả tỉnh Bắc Kạn, ai đã từng được nghe tiếng đàn ấy cũng đều mê mẩn coi đó là báu vật thiêng liêng Tây Bắc. Những đêm ở bản xa, chỉ cần nghe tin nghệ nhân Dương Thục về biểu diễn với cây đàn truyền thuyết thì đêm ấy, cả bản không ai ngủ. Họ đốt lửa, đốt đuốc sáng bừng cả bản làng và dìu dắt nhau đi xem đàn tính tẩu.
Sau gần 20 năm ròng nung nấu phục hồi đàn thần thoại tính tẩu 12 dây, đến nay nghệ nhân Dương Thục đã làm ra được 3 chiếc. Một chiếc được nhạc sĩ Đức Liên đem về Hà Nội. Một chiếc trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Bắc Kạn. Chiếc còn lại luôn được ông mang theo bên mình. Với cây đàn tính tẩu 12 dây, ông đã ba lần được biểu diễn tại các liên hoan toàn quốc, mới đây nhất là thành công vang dội tại Lễ Giỗ Tổ đền Hùng.

"Cây đàn tính tẩu 12 dây được thiết kế cực kỳ phức tạp, nó có thể đánh được tất cả các làn điệu dân ca của Bắc – Trung – Nam với những âm thanh khác nhau, không dây nào giống dây nào. Giờ đây, đàn tính tẩu 12 dây đã thành hiện thực, không còn là sự tích nữa"

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét