Người
Mường (chữ Nôm:hoặc), là một dân tộc sống ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam,
là thành viên của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam.
Người
Mường nói tiếng Mường, ngôn ngữ thuộc nhóm Việt - Mường trong ngữ chi Việt thuộc
ngữ tộc Môn-Khmer của ngữ hệ Nam Á.
Người
Mường tập trung đông nhất ở tỉnh Hòa Bình và các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa.
Dân số tại Việt Nam theo kết quả Điều tra dân số năm 2009 là 1.268.963 người.
Người
Mường có quan hệ rất gần với người Kinh. Các nhà dân tộc học đưa ra giả thuyết
người Mường và người Kinh có nguồn gốc chung là người Việt-Mường cổ. Thời kỳ
ngàn năm bắc thuộc thì bộ phận người cư trú ở miền núi ít bị Hán hóa, bảo tồn lối
sống đến nay là người Mường, còn bộ phận ở trung du và đồng bằng có sự hòa trộn
với người phương bắc về văn hóa và nhân chủng thì thành người Kinh. Quá trình
chia tách Mường - Kinh, xác định theo ngôn ngữ học thì diễn ra từ Tk 7-8 và kết
thúc vào Tk 12, thời Nhà Lý. Tuy nhiên chủ đề nguồn gốc các dân tộc là thứ
tranh cãi dài dài cả vì thiếu các bằng chứng trực tiếp và cả về học thuật.
Tên gọi
Không phải ngay từ buổi đầu lịch sử, dân tộc
Mường đã có tộc danh như ngày nay. Và đương nhiên trước đây, người Mường cũng
không dùng danh từ này làm tên gọi cho dân tộc mình. Theo Trần Từ (tức Nguyễn Đức
Từ Chi), Mường là từ dùng để chỉ một vùng cư trú của người Mường bao gồm nhiều
làng. Mỗi vùng được đặt dưới sự cai quản của một nhà Lang. Qua sự tiếp xúc giao
lưu giữa người Mường và người Kinh, người Kinh đã sử dụng từ Mường để gọi dân tộc
này.
Cho đến tận bây giờ, Người Mường vẫn từ gọi
mình là mol, moăn như ở Hoà Bình, mon, mwanl như ở Thanh Hoá. Còn ở Phú Thọ, đặc
biệt là ở Thanh Sơn, nơi người Mường tập trung đông đảo nhất, cũng như Người Mường
ở huyện Yên Lập và một số xã thuộc huyện Thanh Thuỷ, người Mường tự gọi mình là
Mol, Monl. Mặc dù những từ này có biến âm hơi khác ở mỗi vùng, mỗi địa phương
nhưng đều quan niệm giống nhau về mặt nghĩa. Tất cả những từ mà người Mường
dùng để chỉ dân tộc mình có nghĩa là người. Vì lẽ đó mà người Mường thường tự
xưng mình là con Mol hoặc là con monl: con người. Còn từ Mường vốn là từ mương
người Mường dùng để chỉ nơi cư trú chứ không liên quan gì đến tộc danh ngày nay
của mình. Mặc dù vậy cùng sự biến động của lịch sử cũng như quá trình giao lưu
kinh tế, văn hoá với các dân tộc anh em khác cho đến nay từ "Mường"
đã được người Mường chấp nhận và coi đó là tộc danh của mình, và hiển nhiên, họ
tự nhận mình là người Mường như ngày nay. Do đó, Mường đã trở thành tên gọi
chính thức và duy nhất của tộc người này để phân biệt với các dân tộc khác. Tộc
danh Mường đã được các tổ chức, thể chế, các nhà nghiên cứu và nhân dân dùng
khi tìm hiểu, nghiên cứu gọi dân tộc này: Người Mường.
Từ "Mường" trong "người Mường"
chữ Nôm viết là hoặc. Cả hai chữ "Mường" và đều là chữ hình thanh, có
chung thanh phù (bộ phận biểu thị âm đọc của chữ) là chữ "mang" 芒. Chữ "Mường" có ý phù (bộ phận biểu thị
ý nghĩa của chữ) là chữ "khuyển" 犬 có nghĩa
là "con chó". Chữ "Mường" có thanh phù là chữ
"di" 夷 có nghĩa là "mọi rợ".
Dân số và địa bàn cư trú[sửa | sửa mã nguồn]
Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống
kê công bố năm 1989, dân tộc Mường ở Việt Nam mới chỉ có 914.396 người nhưng 10
năm sau, tức năm 1999, vẫn theo kết quả Tổng điều tra dân số của Tổng cục Thống
kê công bố, người Mường đã tăng lên 1.137.515 người.
Người Mường sống tập trung ở các thung
lũng hai bờ sông Đà (Phú Thọ, Sơn La, Ba Vì, Hòa Bình) và khu vực trung lưu của
sông Mã, sông Bưởi (các huyện Thạch Thành, Bá Thước, Cẩm Thủy, Ngọc Lặc của tỉnh
Thanh Hóa). Người Mường ở Thanh Hoá gồm hai bộ phận: Mường Trong (Mường gốc) và
Mường Ngoài (người Mường di cư từ Hoà Bình vào). Sang đến tỉnh Nghệ An hầu như
không có người Mường sinh sống (năm 1999 chỉ có 523 người Mường trong toàn
tinh). Ngoài ra ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ cũng có gần 27.000 người mới di cư
vào trong những năm gần đây.
Theo Tổng điều tra dân số năm 1999, người
Mường sống tập trung ở các tỉnh: Hòa Bình (479.197 người, chiếm 63,3% dân số của
tỉnh), Thanh Hóa (328.744 người, chiếm 9,5% dân số của tỉnh), Phú Thọ (165.748
người, chiếm 13,1% dân số của tỉnh), Sơn La (71.906 người, chiếm 8,2% dân số của
tỉnh), Ninh Bình (46.539 người), Hà Nội (khu vực Ba Vì), Yên Bái, Đắk Lắk. Số
người Mường ở các tỉnh nói trên chiếm khoảng 98% số người Mường ở Việt Nam năm
1999
Nguồn gốc
Một phụ nữ người Mường xưa
Người Mường có cùng nguồn gốc với người Việt
cư trú lâu đời ở vùng Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ,...
Đẻ đất đẻ nước
Đẻ đất đẻ nước là bộ sử thi lớn, kể về gốc
tích và công cuộc đấu tranh của người Mường ở thời đại rất xa xưa, chứa đựng những
quan niệm người Mường cổ về việc hình thành trời đất, tạo lập thế giới.
Chim Ây, Cái Ứa
Cũng như các dân tộc khác, để lý giải về
nguồn gốc của dân tộc mình, dân gian Mường ở Hòa Bình còn lưu giữ và truyền kể
những huyền thoại về sự xuất hiện dân tộc mình dưới dạng những áng Mo (những
truyền thuyết đó được lưu truyền chủ yếu dưới dạng các bản mo hát với phiên bản
dài ngắn khác nhau).
Thuở xưa, khi con người còn chưa xuất hiện,
trời làm hạn hán,khô khan, cây cối khô mà chết, rồi trời lại mưa. Một trận mưa
to chưa từng thấy. Nước chảy thành suối thành sông. Đất lở bồi thành đồng bằng.
Đá lăn chất đầy thành gò thành đống, thành đồi thành núi. Từ dưới đất mọc lên một
cây si. Cây si lớn như thổi trở thành một cây cổ thụ, cành lá che kín cả bầu trời.
Cây si bị sâu đục ăn làm cho gãy cành rụng lá. Từ gốc cây si đẻ ra một đôi
chim. Chim Ây là đực, Cái ứa là cái. Đôi chim rủ nhau bay lên cành cây si làm tổ.
Cành si gãy. Chim bay lên cây đa làm tổ. Cây đa đổ. Chim Ây và Cái Ứa lại rủ
nhau bay lên núi đá lấy cỏ làm thành tổ Hang Hao. Cái Ứa đẻ ra trăm ngàn quả trứng.
Trứng chim nở ra thành muôn loài muôn vật. Còn lại một trăm cái trứng thì nở ra
con người. Đó là người Mường và người Kinh
Truyền thuyết về Đức thánh Tản Viên (thần
núi Ba Vì)
Người Mường Thanh Sơn còn cho rằng Đức
Thánh Tản Viên Sơn (còn gọi là Sơn tinh) – Con rể vua Hùng thứ 18 – là người Mường
Thanh Sơn. Truyền kể rằng, ở vùng mường Xuân đài, Khả Cửu ngày xưa có một cô
gái con nhà Lang tên là Đinh Thị Đen (người Mường Thanh Sơn gọi là Đinh Thị
Điên). Cô là người đen đủi xấu xí nhất trong gia đình dòng họ nên bị bố mẹ, anh
chị em hắt hủi. Một lần vào rừng lấy củi, cô gái tủi thân ngồi khóc trên một tảng
đá và ngủ thiếp đi. Từ đó cô có thai và đã bị nhà Lang hắt hủi đuổi đi. Cô đã
lang thang lần đi đến vùng mường Tất Thắng. Dân ở đó thấy cô đói khát đã cho cô
ăn uống. Từ Tất Thắng, cô lại đi tiếp đến động Lăng Xương (thuộc xã Trung Nghĩa
huyện Thanh Thuỷ ngày nay) thì đẻ ra thần Tản Viên. Dân bản ở đây thương tình
đã đóng cho cô một bè nứa và đưa hai mẹ con cô vượt sông Đà sang vùng Ba Vì
(thuộc Hà Nội ngày nay). Mẹ con bà Đinh Thị Đen được bà Ma Thị là chúa các động
mường cưu mang nhận làm con nuôi. Khi Tản Viên lớn lên, thần được bà Ma Thị
truyền cho quyền cai trị và bảo vệ các xứ mường. Thần đã lấy con gái vua Hùng
thứ 18 tên là Ngọc Hoa làm vợ.
Truyền thuyết Đẻ Giang
Người Mường ở các xã Lai Đồng, Đồng Sơn,
Thạch Kiệt còn lưu truyền truyền thuyết "Đẻ giang" như sau: ở đất mường
Tồng (tên gọi cũ của Lai Động) có một cái hang gọi là hang Cơng Tiếng. Ở đó có
con chim ưng đẻ ra một quả trứng. Quả trứng nở ra một con vứa (con ngài tằm).
Con Vứa bay hết Mường này sang Mường nọ rồi đậu vào cây đa, cây sấu rồi bay tiếp
lên núi đá trắng. Cũng từ đó bản Mường trở nên đông vui sầm uất. Người Mường biết
làm nhà để ở và đẻ con cái, ra bố mẹ con giang. Bố mẹ con giang ra trước rồi tiếp
theo đẻ ra được Buồng Nang Ráu, là cháu nàng Thăn, con của nàng Ún Mái. Nàng ún
Mái lại đẻ ra dân ra bản, đẻ ra vợ chồng. Từ đó, Người Mường có quê quán, có
nhà có cửa, có cơm ăn, rượu uống và vàng bạc. Họ mang giang đi hát khắp nơi. Từ
đó các bản mo giang được truyền bá rộng rãi như sang mường Pi, mường Thàng (Hòa
Bình) để những vùng mường này phát triển. Nhờ đó con giang được truyền và ăn
sâu vào đời sống tinh thần của người Mường.
Trên đây chỉ là một vài truyền thuyết tiêu
biểu của người Mường Thanh Sơn giải thích về nguồn gốc dân tộc của mình. Mặc dù
truyền thuyết mang tính hoang đường và đôi khi tản mạn nhưng lại là tư liệu
quý. Người Mường quan niệm mình và người Kinh vốn cùng một cha mẹ sinh ra, cùng
máu mủ dòng giống. Chính vì lẽ đó mà cho đến tận ngày nay, người Mường vẫn còn
lưu truyền câu ca: "Ta với mình tuy hai mà một. Mình với ta tuy một thành
hai"
Ngôn ngữ
Tiếng Mường thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường
trong ngữ chi Việt của ngữ hệ Nam Á. Tiếng Mường rất gần với tiếng Việt có thể
nói một cách khái quát (nhưng không tuyệt đối, khoảng 75%) như sau:
Những từ không dấu trong tiếng Việt thì giữ
nguyên là thành tiếng mường như: Con, con chim, con voi, ăn, cho, tiêu pha= tiêu
pha...một số từ khác phụ âm đầu: tay-thay, đi=ti,đi, con dê=con tê...
Những từ có dấu hỏi trong tiếng Việt cũng
giữ nguyên: của cải=của cải, đểu=đểu, giả=giả...
Những từ có dấu ngã thì chuyển thành dấu hỏi
như: đã=đả, những=nhửng
Những từ có dấu nặng thì chuyển thành dấu
sắc: nặng=nắng (phát âm lại ~ nặng=nắăng, tận= tấn (tấân)...
Những từ mà có âm "ặc, ịt, ặc, ục"
thì giữ nguyên không chuyển dấu: đông đặc= đông đặc.
Những từ có dấu huyền thì chuyển thành dấu
sắc và ngược lại dấu sắc thì thành dấu huyền: nắng= đằng (ví dụ: trời nắng= trới
đằng)
Một số từ không theo quy luật: cây tre=
cân pheo, xưng hô(chú=ô, cháu= xôn), nhìn (ngắm)= hẩu, trông thấy= hẩu kỉa, ở
giữa= ở khừa...(khá giống phương ngữ Thanh - Nghệ - Tĩnh)
(Bổ sung một số từ không theo quy luật:
Qua một số các cụm từ ngữ âm tiết đã đăng cơ bản đều đúng, riêng theo tôi thấy
có một số cần bổ sung và chỉnh như sau (vùng Ngọc Lặc, Thanh Hóa xưng hô):
cháu=xôn; em=ùn; chị=ớơi(phát âm là ới sau là ơi (không dấu hơi kéo dài); anh=áai
(phát âm không dấu, lại vừa như có dấu sắc kèm theo từ ai kéo dài); dì(em của mẹ)=
íi; cô (em bố)=váaa; mẹ=mê ế; bố=bác; bác(chị, anh của bố, mẹ)=pảc; bà=muú u;
ông= ôông....
Nước=Dak (phát âm Đảk, ví dụ: uống nước=òng
đảk (đảc); nhưng Nhà nước thì lại khác (ví dụ: Nhà nước=Nhá nưởc=phát âm dấu sắc=dấu
hỏi (nhà=nhá; nước=nưởc) không thể gọi (nhà nước= nhá đảc)được. - Nhìn= hẩu, thấy=kỉa
hoặc bươn (nhìn thấy=hẩu bươn, hoặc nhìn thấy= hẩu kỉa) - Đi= ti; đứng= từng; dậy=
dấân; ngủ= tảy (ví dụ: ngủ dậy=tảy dấân) (dấân tảy= đang ngủ mới thức giấc và dậy;
đang ngủ thức giấc= àn chể)... tay=xay; chân=chó - từ chỉ con vật: con trâu=con
tru; con bò=con pó; con lợn=con cùn; con ngỗng=con ngan; con ngan= con xiêm;
con gà= con kha.... (con chó=con chò; con mèo=con méo)
Đặc điểm kinh tế
Người Mường sống định canh định cư ở miền
núi, nơi có nhiều đất sản xuất, gần đường giao thông, thuận tiện cho việc làm
ăn. Người Mường làm ruộng từ lâu đời. Lúa nước là cây lương thực chủ yếu. Trước
đây, người Mường trồng lúa nếp nhiều hơn lúa tẻ và gạo nếp là lương thực ăn
hàng ngày. Nguồn kinh tế phụ đáng kể của gia đình người Mường là khai thác lâm
thổ sản như nấm hương, mộc nhĩ, sa nhân, cánh kiến, quế, mật ong, gỗ, tre, nứa,
mây, song... Nghề thủ công tiêu biểu của người Mường là dệt vải, đan lát, ươm
tơ. Nhiều phụ nữ Mường dệt thủ công với kỹ thuật khá tinh xảo.
Tổ chức cộng đồng
Xưa kia, hình thái tổ chức xã hội đặc thù
của người Mường là chế độ lang đạo, các dòng họ lang đạo (Đinh, Quách, Bạch,
Hà) chia nhau cai quản các vùng. Đứng đầu mỗi mường có các lang cun, dưới lang
cun có các lang xóm hoặc đạo xóm (Ậu đạo), cai quản một xóm. giúp việc cho nhà
lang, hưởng lộc của lang.
Sau này vào thời Nhà nguyễn chính quyền Mường
có thêm chức Lý trưởng. Chức này vẫn sau lang cun. Sau 1 số năm (thường 3 năm)
thì bầu lại lý trưởng. Lý trưởng phải được sự phê chuẩn của Lang cun.
Về bản chất Lang cun Mường và chế đô Lang
cun có xấu tốt. Giống như quan cũng có quan xấu quan tốt. Dân Mường vẫn thích
chế độ lang đạo hơn là chịu sự quản lý của người Kinh
Nhà Nguyễn sau khi thành lập phế bỏ chế độ
Lang đạo, đặt quan lại lên cại quản liền xảy ra sự chống đối, như khởi nghĩa Le
Duy Lương, khởi nghĩa ở Thạch Bị, Sơn Âm.Về sau vua Minh Mạng lại khôi phục chức
chế độ Lang đạo. Đặc biệt khi bắt được người cầm đầu, nhà Nguyễn chỉ phủ dụ mà
không thấy giết.
Tín ngưỡng
Người mường theo đạo Tin Lành, Phật, Thiên
Chúa, nhưng có sự khác biệt ở người theo đạo Phật là mọi nghi lễ đều phải có chủ
lễ là thầy mo chủ trì.
Người Mường thờ Vua Cha Ngọc Hoàng, Phật,
Thánh, Quốc mẫu Hoàng Bà.
Đối với người Mường: "Vạn vật hữu
linh".
Thầy tâm linh Mường gồm có:
Thầy đồng: là nam, người được thánh thần
mượn thân để làm việc. Không vào làm việc được trong đám ma.
Thầy Mỡi: giống thầy đồng nhưng là Nữ.
Thầy Mo: Người lo tang ma là chủ yếu. thầy
này mới biết mo đẻ đất đẻ tác.
Trượng (Đá Trượng): là thầy nhưng không có
thánh thần ốp đồng. Thầy này là đi học mà thành.
Thầy bùa, ếm, chài....
Văn hóa
Ăn
Người Mường thích ăn các món đồ như xôi đồ,
cơm tẻ đồ, rau, cá đồ. Cơm, rau đồ chín được dỡ ra rá trải đều cho khỏi nát trước
khi ăn.
Rượu Cần của người Mường nổi tiếng bởi
cách chế biến và hương vị đậm đà của men được đem ra mời khách quý và uống
trong các cuộc vui tập thể.
Phụ nữ cũng như nam giới thích hút thuốc
lào bằng loại ống điếu to. Ðặc biệt, phụ nữ còn có phong tục nhiều người cùng
chuyền nhau hút chung một điếu thuốc.
Ở
Người Mường sống tập trung thành làng xóm ở
chân núi, bên sườn đồi, nơi đất thoải gần sông suối... ở tỉnh Hòa Bình, Thanh
Hóa, Phú Thọ. Mỗi làng có khoảng vài chục nóc nhà, khuôn viên của mỗi gia đình
thường nổi bật lên những hàng cau, cây mít. Ðại bộ phận ở nhà sàn, kiểu nhà bốn
mái. Phần trên sàn người ở, dưới gầm đặt chuồng gia súc, gia cầm, để cối giã gạo,
các công cụ sản xuất khác.
Tại sao lại phải đặt chuồng gia súc ở dưới
gầm sàn. đó là vì xưa rất nhiều thú dữ như cọp, báo.... mà con người lại thưa
ít nên phải đặt chuồng gia súc dưới gầm sàn.Khi cọp báo đến thì người nhà đánh
chiêng gõ mõ để làm con vật sợ mà đi
Làm nhà mới, khi dựng cột bếp, người Mường
có tục làm lễ nhóm lửa. Gia chủ lấy bẹ chuối cắt hình 3 con cá to kẹp vào thanh
nứa buộc lên cột bếp, ở cột cái của bếp còn đặt một quả bí xanh. Trước lúc đun
nấu ở nhà mới, gia chủ làm lễ nhóm lửa xin thần bếp cho đặt 3 hòn đầu rau và
hòn đá cái. Ðêm đó gia chủ mời mọi người uống rượu cần dưới ánh sáng của ngọn lửa
không tắt.
Vị trí cửa Poóng của Người Mường rất quan
trọng. Người già, người đức cao vọng trọng ngồi bên trên nhất khi ngồi, ăn, uống,
Cưới xin
Trai gái tự do yêu đương tìm hiểu, ưng ý
nhau thì báo để gia đình chuẩn bị lễ cưới. Ðể dẫn đến đám cưới phải qua các bước:
ướm hỏi (kháo thếng), lễ bỏ trầu (ti nòm bánh), lễ xin cưới (nòm khảu), lễ cưới
lần thứ nhất (ti cháu), lễ đón dâu (ti du). Trong ngày cưới, ông mối dẫn đầu
đoàn nhà trai khoảng ba, bốn chục người gồm đủ nội, ngoại, bạn bè mang lễ vật
sang nhà gái tổ chức cưới. Chú rể mặc quần áo đẹp chít khăn trắng, gùi một chón
(gùi) cơm đồ chín (bằng khoảng 10 đấu gạo), trên miệng chón để 2 con gà sống
thiến luộc chín. Trong lễ đón dâu, cô dâu đội nón, mặc váy áo đẹp ngoài cùng là
chiếc áo dài màu đen thắt 2 vạt ở phía trước. Cô dâu mang về nhà chồng thường
là 2 chăn, 2 cái đệm, 2 quả gối tựa để biếu bố mẹ chồng và hàng chục gối con để
nhà trai biếu cô dì, chú bác.
Tục cưới xin của người Mường gần giống như
người Kinh (chạm ngõ, ăn hỏi, xin cưới và đón dâu). Khi trong nhà có người sinh
nở, người Mường rào cầu thang chính bằng phên nứa. Khi trẻ em lớn khoảng một tuổi
mới đặt tên.
Quan hệ Xã hội
Quan hệ trong làng xóm với nhau chủ yếu là
quan hệ láng giềng. Gia đình hai, ba thế hệ chiếm phổ biến. Con cái sinh ra lấy
họ cha. Quyền con trai trưởng được coi trọng va con trai trong gia đình được thừa
kế tài sản . Người Mường không theo quan niệm con chú con bác mà dù là con chú
hay con bác ai ra đời trước đều là anh là chị, phân theo tuổi tác chứ không
theo thứ hay trưởng.
Sinh nở
Khi người vợ sắp sinh con, người chồng phải
chuẩn bị nhiều củi, làm một bếp riêng ở gian trong và quây phên nứa thành một
buồng kín cho vợ đẻ. Khi vợ chuyển dạ đẻ, người chồng đi báo tin cho mẹ vợ và
chị em họ hàng nội ngoại biết để đến nhà cùng nhau chờ đợi. Bà đỡ cắt rốn cho đứa
trẻ bằng dao nứa lấy từ đầu chiếc dui trên mái nhà. Nếu là con trai thì dùng
dao nứa mái nhà trước, nếu là con gái thì dùng dao nứa mái nhà sau. Cuống rốn của
các con trong gia đình được đựng chung trong một ống nứa, họ tin rằng làm như
thế lớn lên anh em sẽ thương yêu nhau.
Ngày sinh con, gia đình tổ chức ăn mừng, mời
thầy mo cùng trừ mọi điều xấu hại đến mẹ con. Ðẻ được ba đến bảy ngày thường có
nhiều anh em, bà con đến thăm hỏi tặng quà. Bà ngoại mừng cháu bao giờ cũng có
vài vuông vải tự dệt, gia đình khá giả mừng thêm chiếc vòng bạc đeo cổ, anh em
thân thích thì mừng gạo, mừng tiền.
Người đẻ thường ăn cơm nếp cẩm với lá tắc
chiềng (loại lá thuốc chống được bệnh sài), uống nước nấu với các loại lá cây
thuốc và trong thời gian cữ (bảy đến mười ngày) nhất là ba ngày đầu luôn luôn
phải sưởi bên bếp lửa. Trẻ sơ sinh nếu là trai thì được âu yếm gọi là lọ mạ
(thóc giống), nếu là gái thì lại trìu mến gọi là cách tắc (rau cỏ). Thường thì
trẻ khoảng 1 tuổi mới được đặt tên gọi chính thức.
Ma chay
Khu mộ đá Đống Thếch ở Kim Bôi, Hòa Bình,
tương truyền là nơi chôn cất các quan lang người Mường)
Người chết tắt thở, con trai trưởng cầm
dao nín thở chặt 3 nhát vào khung cửa sổ gian thờ, sau đó gia đình nổi chiêng
phát tang. Thi hài người chết được liệm nhiều lớp vải và quần áo theo phong tục
rồi để vào trong quan tài làm bằng thân cây khoét rỗng, bên ngoài phủ áo vẩy rồng
bằng vải.
Tang lễ do thầy mo chủ trì. Hình thức
chịu tang của con cái trong nhà không khác so với người Kinh, tuy nhiên con
dâu, cháu dâu chịu tang ông bà, cha mẹ còn có bộ trang phục riêng gọi là bộ quạt
ma.
Khi người con trai trong gia đình ấy
chống gậy tre thì gia đình ấy có bố mất, nếu chống gậy gỗ thì gia đình có mẹ mất.
Tế quạt ma là một nghi lễ độc đáo
trong đám ma người Mường. Khi tế quạt ma, những người là dâu trong nhà trong họ
của người quá cố phải mặc bộ đồ quạt ma rất đẹp, gồm: váy đen, cạp mới, áo ngắn,
áo chùng trắng, yếm đỏ, hai tay đeo vòng hạt cườm, tay phải cầm quạt cọ múa,
tay trái cầm que gậy, đầu đội mũ quạt trong trí tua hạt cườm; phía trước đặt một
chiếc ghế mây.
Sau khi chôn người chết. lấp đất. Lấy
4 viên đá to đẹp để dánh dấu mồ. 2 viên đặt ở đầu và cuối. 2 viên đặt 2 bên.4
viên đá này rất quan trọng để tránh mất mồ mả. Tìm được 4 viên đá coi như tìm
được mả.
Người Mường Lạc SƠn Hòa bình: sau
khi chôn người chết. 3 đêm đầu vẫn để hương thờ.sau 3 đêm thì làm lễ cho đồ
dùng..... và đưa người chết về mồ về mả. hôm 49 ngày thì làm lễ "thay màu
áo". Tức là nhuộm áo tang chấm dứt mặc áo tang.
Tết năm đầu tiên đó anh em họ hàng
mang lễ đến nhà có người chết đặt lễ cho hồn người chết đó. gọi là "đặt
cành kèo". gồm gồm bánh trưng chai rượu
Lịch
Lịch Cổ truyền người Mường gọi là
sách đoi làm bằng 12 thẻ tre tương ứng với 12 tháng. Trên mỗi thẻ có khắc ký hiệu
khác nhau để biết tính toán, xem ngày, giờ tốt xấu cho khởi sự công việc.
Người Mường ở Mường Bi có cách tính
lịch khác với người Mường ở các nơi khác gọi là cách tính ngày lùi, tháng tới. Tháng
giêng lịch Mường Bi ứng với tháng 10 của lịch Mường các nơi khác và tháng 10 âm
lịch.
Lễ hội
Người Mường có nhiều ngày hội quanh
năm: Sắc bùa, hội xuống đồng (Khung mùa), hội cầu mưa (tháng 4), lễ rửa lá lúa
(tháng 7, 8 âm lịch), lễ cơm mới...
Văn nghệ dân gian
Kho tàng văn nghệ dân gian của người
Mường khá phong phú, có các thể loại thơ dài, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví
đúm, tục ngữ. Người Mường còn có hát ru em, đồng dao, hát đập hoa, hát đố, hát
trẻ con chơi... Cồng là nhạc cụ đặc sắc của người Mường, ngoài ra còn nhị, sáo
trống, khèn lù. Người Mường ở Vĩnh Phúc và Phú Thọ còn dùng ống nứa gõ vào những
tấm gỗ trên sàn nhà, tạo thành những âm thanh để thưởng thức gọi là "đâm
đuống". Tín ngưỡng:Người Mường thờ cúng Tổ Tiên Ông Bà.
Hát Xéc bùa (có nơi gọi Xắc bùa hay
Khoá rác) được nhiều người ưa thích. Thường (có nơi gọi Ràng thường hoặc Xường)
là loại dân ca ca ngợi lao động, và các nét đẹp phong tục dân tộc. Bọ mẹng là
hình thức hát giao du tâm sự tình yêu. Ví đúm cũng là loại dân ca phổ biến.
Bên cạnh đó, người Mường còn có các
thể loại hát khác như hát ru, hát đồng dao... Ðặc biệt, ở người Mường phải kể đến
lễ ca. Ðó là những áng mo, bài khấn do thầy mo đọc và hát trong đám tang.
Ngoài sáo, nhị, trống, kèn... thì cồng
chiêng là nhạc cụ đặc sắc.
Chơi
Trò chơi của người Mường gần gũi với
mọi đối tượng. Có những trò chơi được tổ chức chu đáo, công phu như: thi bắn nỏ,
đánh đu, ném còn, v.v... Các trò chơi của lứa tuổi thiếu niên nhi đồng được tổ
chức linh hoạt ở mọi nơi, mọi lúc với những điều kiện chơi đàn giản, tiện lợi
như trò đánh cá cắt, trò cò le, trò đánh chó hoặc buôn chó, trò đánh mảng, trò
chăm chỉ, chằm chăn.
Phương tiện Vận chuyển[sửa | sửa mã
nguồn]
Phụ nữ phổ biến dùng loại gùi đan bằng
giang hoặc tre, 4 góc nẹp thành thẳng đứng, có dây đeo qua trán hoặc qua vai để
chuyên chở. Ðôi dậu, đòn gánh có mấu 2 đầu, đòn xóc cũng thường được sử dụng.
Nước sạch được chứa trong ống nứa
to, dài hơn 1 mét vác vai từ bến nước về dựng bên vách để dùng dần.
Nhà cửa
Người Mường sống trong những ngôi
nhà sàn truyền thống, địa bàn cư trú tập trung chủ yếu ở những dải đồng bằng
thung lũng hẹp, doi đất ven sông, ngòi, dưới chân các dãy núi hay trên các đồi
gò thấp. Làng bản mường sống tập trung thành từng chòm, từng xóm, ẩn khá kín dưới
màu xanh của cây cối trồng quanh nhà. Các bản mường thường có khoảng từ 20 đến
30 nóc nhà, và nếu bản to thì có thể nhiều hơn nữa. Bản làng thường dựng nơi gần
nguồn nước, gần đồng ruộng, thuận lợi cho lao động sản xuất. Tuy vậy, bản làng
của người Mường ít khi lộ rõ để người ngoài dễ phát hiện vì được bao bọc bởi luỹ
tre và cây ăn quả. Đường vào bản thường là những con đường mòn nhỏ quanh co tạo
cảm giác dễ nhầm, dễ lạc. Và đối với người Mường, họ không coi trọng việc dựng
nhà lập bản sao cho thuận tiện giao thông đi lại. Vì lẽ đó mà muốn vào bản làng
hay nhà của người Mường thường phải băng qua con đường nhỏ nối làng với đường
chính hoặc lội qua những con suối, ngòi.
Với người Mường nói chung, nhà là
nơi diễn ra và chứng kiến những sự kiện như sinh, hôn, tử của một vòng đời. Từ
đó, ngôi nhà không chỉ có ý nghĩa đối với gia đình mà còn mang ý nghĩa cộng đồng
xã hội, không chỉ là nhu cầu về vật chất là để trú ngụ nắng mưa, ngủ nghỉ, mà
còn đáp ứng nhu cầu tâm linh.
Người Mường rất trọng hướng nhà, vì
vậy, hướng nhà phải do một thầy địa lý có tiếng chọn riêng theo tuổi của gia chủ.
Họ quan niệm làm nhà đúng hướng sẽ đem lại tài lộc và may mắn đến cho gia đình
Theo quan niệm của người Mường, làm
nhà không được ngược hướng với đồi núi, chính vì vậy, bề ngoài, nhà của người
Mường có vẻ không theo một quy luật nào. Nhà dựng ở đồi gò thì lưng dựa vào đồi
gò, cửa hướng ra khoảng không thung lũng, cánh đồng trước mặt. Nhà dựng ở ven
sông thì mặt có thể hướng ra dòng sông hay hướng vào trong... Tất cả những cái
tưởng chừng là "lộn xộn" đó lại tạo cho bản làng của người Mường
Thanh Sơn cảm giác vừa vững vàng vừa cởi mở với những nét độc đáo riêng.
Nhà sàn của người Mường là kiểu kiến
trúc cổ truyền. Việc dựng nhà sàn của người Mường là kết quả của một quá trình
dài đúc rút kinh nghiệm cư trú. Điều đó thể hiện ở bản mo nổi tiếng họ là
"Te tấc te đác" (đẻ đất đẻ nước). Trong bản mo đồ sộ này có đoạn nói
về sự ra đời của nhà sàn người Mường. Mo rằng: Khi người Mường sinh ra nhà chưa
có nên phải sống trong các hang núi, hốc cây, họ phải đối mặt với nhiều thiên
tai hiểm hoạ. Một hôm, ông Đá Cần (còn gọi là lang Cun Cần) bắt được một con
rùa đen trong rừng đang định đem ra làm thịt. Rùa van xin Đá Cần tha chết và hứa
nếu được thả thì rùa sẽ dạy cho ông cách làm nhà để ở, làm kho để lúa để thịt:
Bốn chân tôi làm nên cột cái
Nhìn sườn dài, sườn cụt mà xếp làm
rui
Nhìn qua đuôi làm trái
Nhìn lại mặt mà làm cửa thang cửa sổ
Nhìn vào xương sống làm đòn nóc dài
dài
Muốn làm mái thì trông vào mai
Vào rừng mà lấy tranh, lấy nứa làm
vách
Lấy chạc vớt mà buộc kèo
Lần dựng thứ nhất, nhà đổ. Ông Đá Cần
doạ làm thịt rùa. Rùa lại phải dặn lấy gỗ tốt mà làm cột làm kèo… Từ đó, người
Mường biết làm nhà để ở.
Việc dựng nhà của người Mường đòi hỏi
nhiều công đoạn, nhiều sức lực nên họ có tục giúp đỡ nhau. Người giúp gỗ, người
giúp lạt, người giúp công, giúp sức. Trước kia, để nhận được sự giúp đỡ của dân
làng, gia đình làm nhà phải chuẩn bị một lễ nhỏ mang đến nhà Lang để nhờ Lang
báo cho mọi người trong bản làng biết. Mỗi gia đình sẽ cử một người đến giúp.
Người ta phân công những công việc cụ thể cho mỗi thành viên đảm nhận như xẻ gỗ,
đan nứa, pha tre, đan gianh cọ, lợp mái… Gia chủ làm nhà tuỳ vào điều kiện kinh
tế mà nhận sự giúp đỡ khác nhau. Nhà khá giả thì mọi người giúp ít và ngược lại.
Theo tục này, ở xã Xuân Đài có lệ khi một người làm nhà thì tuỳ vào khả năng mà
giúp gỗ, lạt, nứa, lá, và mỗi nhà góp ba đến năm cân gạo nếp, hai chai rượu, một
con gà… Lệ này ở mỗi xóm làng lại có những quy định khác nhau. Ở xã Tân Phú thì
có lệ mỗi gia đình đưa cho gia chủ bốn trăm "phá" (tức là hai trăm
cây nứa gập đôi). Nói chung, tục giúp nhau trong việc làm nhà của người Mường
Thanh Sơn như đóng góp nguyên vật liệu, lương thực, thực phẩm và ngày công thể
hiện sự quan tâm chung của cả bản làng, tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết
cộng đồng sâu sắc.
Trong quá trình dựng nhà của người
Mường, thầy mo có vai trò tương đối quan trọng. Mở đầu việc dựng nhà, ông mo
làm lễ cắm cọc vào nơi làm cầu thang. Sau đó, chủ nhà cày ba luống làm lệ trên
nền làm nhà. Ông mo đi sau vảy nước vào những luống cày đó và khấn vía lúa. Người
làm nhà chuẩn bị vài cụm lúa đã tuốt hết hạt chỉ còn cọng rơm ném ra xa rồi cầm
đòn xóc đâm vào cụm lúa nâng lên. Mỗi lần nâng đòn xóc lên rồi lại để xuống và
hát giang ý nói rằng "lúa đẹp, lúa nặng, lúa bay về nhà để cho no cho đủ…".
Ông mo nâng các cụm lúa lên trên tay rước đi vài vòng rồi giang mo "đẻ đất
đẻ nước" đoạn nói về rùa dạy dân làm nhà. Tiếp theo ông mo vảy một thứ nước
mà người Mường cho đó là nước phép vào những hố chôn cột để xin thần linh cho
gia chủ làm nhà mới.
Người Mường kiêng không để mấu của
đòn tay quay xuống mặt sàn. Khi bắc đòn tay thì ngọn phải quay về gian cuối, gốc
ở gian đầu nơi có cầu thang lên xuống. Gian này được gọi là gian gốc. Sào nhà
gác lên thượng lương. Gốc sào cũng phải quay về gian gốc. Tre nứa dùng làm nhà
phải không được cụt ngọn, không bị sâu hay bị đốt cháy dở. Gỗ làm nhà phải là
loại gỗ chắc đảm bảo không mối mọt và thường là gỗ lim xanh, mài lái… Người Mường
đặc biệt quan tâm đến những cây gỗ mọc ở núi đá như giống gỗ heo vì giống gỗ
này chặt đốn thì mềm nhưng khi chôn xuống đất hàng trăm năm cũng không mục mại.
Có nơi người Mường còn kéo gỗ ra ngâm bùn tại ngòi, suối khoảng một hai năm mới
vớt lên làm.
Những cây gỗ được chọn làm cột, sau
khi lắp mộng, dựng khung, được chôn thẳng xuống những hố đã đào sẵn sâu khoảng
20 – 30 cm. Tục chôn cột nhà, ngoài dụng ý cho vững chắc khung nhà khi lợp mái,
làm sàn, làm vách, còn có ý nghĩa tâm linh, thể hiện cho sự hoà hợp âm dương, một
biến thể của tín ngưỡng phồn thực. Cho đến nay, đa số người Mường đã thay đổi tục
chôn cột nhà bằng cách nâng cột lên mặt đất và kê lên những phiến đá chống mối
mọt. Tuy nhiên cột nhà của người Mường Thanh Sơn không được gia công bào gọt
nhiều như cột nhà của người Thái và người Mường ở Hòa Bình. Nếu cột nhà của người
Thái Sơn La được xẻ, bào, đẽo cho vuông thành, thì cột nhà của người Mường
Thanh Sơn chỉ bào lớp vỏ ngoài và để tròn.
Người Mường dùng con xỏ bằng tre,
con then bằng gỗ, đinh kèo bằng gỗ… để đóng thay cho đinh sắt. Họ dùng lạt mây,
giang hoặc tre bánh tẻ để buộc níu các ngoàm đẽo hoặc cột kèo. Khung nhà sàn của
người Mường được dựng hoàn toàn bằng cách ghép mộng, đục đẽo mà thành. Đòn tay
(tôn thảy) được đặt dọc mái nhà. Đòn tay cái có miếng tre kẹp chặt đòn tay vào
đầu cột cái gọi là cái khoá kèo. Mái nhà lợp bằng lá cọ hoặc bằng cỏ gianh. Những
cây nứa ngộ (loại nứa to và dày) vàng óng được lựa chọn kỹ để pha nan kẹp lá
(như cái gắp dùng để kẹp cá nướng). Cứ như thế, những kẹp lá cọ được đưa lên
mái buộc thẳng vào dui mè. Đây là cách lợp mái nhà theo tục truyền thống còn tồn
tại phổ biến cho đến ngày nay. Tuy vậy ở một số nơi, người Mường đã thay cách lợp
nhà. Lá cọ được đưa lên lợp vào dui mè mà không cần kẹp nữa. Mái nhà sàn khum
khum hình mai rùa.
Nếu như nhà sàn của người Mường ở
Hoà Bình phổ biến là bốn mái (hai mái đầu hồi và hai mái dài). Sàn nhà thấp giống
sàn nhà của người Thái thì nhà sàn của người Mường ở Thanh Sơn cũng như nhà sàn
Yên Lập chủ yếu là loại nhà sàn hai mái mà không có mái đầu hồi. Mái nhà dốc vảy
gần sát sàn. Nhà của người Mường không có sàn thềm bên ngoài như của người
Thái. Sàn nhà được làm bằng những cây bương già thẳng pha thành mảnh dát xuống
lược bỏ mắt và cạnh sắc ghép liền với nhau, dùng lạt mây buộc chặt kết thành từng
mảnh buộc chặt vào khung sàn. Những sàn nhà của nhà Lang trước đây thì thường
dùng gỗ tốt như lim, gụ làm sàn nên qua thời gian sử dụng, những tấm ván lên nước
bóng láng. Từ mặt đất lên sàn nhà thường cao khoảng 2 đến 2,5 m tuỳ từng nơi ẩm
thấp hay cao ráo.
Công việc làm nhà tiến hành trong 4
– 5 ngày thì kết thúc. Ngày lợp mái, gia chủ tổ cúng tổ tiên, thổ công cai quản
nơi mình ở. Lễ cúng gồm xôi nếp và thủ lợn bày ở khoảng đất trống chọn làm sàn.
Nhà làm xong, gia đình lại tổ chức cúng tổ tiên, thổ công, ma rừng, ma cây, ma
bến nước, ma đồi gò… thông báo rằng gia đình đã có một ngôi nhà mới, mời tổ
tiên về chung vui với con cháu phù hộ gia đình may mắn.
Nhà của người Mường thường ba đến
năm gian. Những gia đình đông con thì nhà lên đến bảy – mười hai gian. Những
ngôi nhà như vậy ngày nay còn rất ít. Nhà dù ít hay nhiều gian đều có một sàn
bên trái để bắc cầu thang và máng nước sinh hoạt. Gian đầu tiên từ cầu thang
lên gọi là gian gốc. Đây là gian quy tụ mọi tính linh thiêng của ngôi nhà, là
nơi xuất phát những tục lệ đối xử hành vi của con người với ngôi nhà.
Ở gian gốc có một cây cột to hơn các
cây cột khác trong nhà gọi là cột gốc (còn gọi là cây cột chồ) ở đầu góc nhà gần
cầu thang. Cây cột gốc được người Mường trân trọng đặt khám (bàn thờ) thờ tổ
tiên. Mọi người kể cả chủ hay khách đến nhà chơi đều không được bôi nhọ, dựa
lưng, gác chân, buộc đồ vật hay treo quần áo vào cột này. Phần cột dưới sàn
cũng không được buộc trâu bò hay dựng, treo công cụ lao động. Người Mường quan
niệm nếu phạm phải những điều cấm trên thì bị coi là xúc phạm đến gia đình, tổ
tiên và thần linh.
Gian nhà gốc chỉ dành riêng cho nam
giới. Phụ nữ trong nhà không được ngồi nghỉ hoặc làm việc ở đây. Trong các ngày
trọng đại như hôn lễ, ma chay thì chỉ nam giới có vai vế trong dòng họ được ngồi
ăn uống.
Tại gian nhà linh thiêng này có một
cửa sổ làm sát đến sàn nhà gọi là cửa sổ "voóng" linh thiêng, không
ai được đưa vật gì hay chui qua. Cửa sổ voóng chỉ dành để đưa quan tài ra ngoài
khi gia chủ có tang ma. Đối diện với cột chỗ ở gian gốc có một cột nhà tương đối
quan trọng. Ở chân cột này, người Mường để vào cum lúa đã tuốt hết hạt. Đầu cột
đội một cái giỏ thủng biểu hiện cho âm tính (người Mường gọi là nường). Bên cạnh
đó, người Mường treo một đoạn tre tước xơ một đầu cho bông lên biểu hiện cho
dương tính (gọi là nõ). Điều này thể hiện đời sống tâm linh, nói lên sự hỗn hợp,
cân bằng âm dương, sự ổn định và thuận hoà của cả gia đình.
Gian thứ hai của ngôi nhà (gian kế
theo gian gốc) dành cho nam giới ngủ nghỉ. Gian giữa thường là gian để thóc và
làm bếp. Lúa gặt ở ruộng nương về phơi khô khi chuyển lên nhà được để ở đây. Họ
xếp lúa vào một cái quây như cái bồ thủng đáy đan bằng nứa hoặc giang để gần bếp.
Bếp của người Mường là rất công phu. Khuôn bếp được làm bằng loại gỗ đặc biệt cứng,
có đường viền xung quanh, đáy lót bằng bẹ chuối rồi rải bùn lên trên. Khi chuyển
bếp mới, người Mường tìm một số loại cỏ thơm như cỏ mật phơi khô để vào bếp đốt
lấy tro rồi mới bắc kiềng nấu nướng. Bếp thường đặt trên trục nhà nơi nóc dọi
xuống. Có nhà bếp đặt gần cửa sổ để thông gió, tránh khói và hoả hoạn. Tuy vậy,
việc đặt bếp ở cửa sổ ít được ưa chuộng hơn vì người Mường quan niệm nếu đặt bếp
gần cửa sổ thì hơi ẩm từ bếp toả ra ngôi nhà không đều. Nhà người Mường thường
có hai bếp chuyên dụng. Một bếp để nấu nướng thức ăn, và phụ nữ, trẻ em trong
gia đình ngồi sưởi. Một bếp nhỏ hơn đặt ở gian gốc dùng để cho đàn ông trong
gia đình ngồi sưởi vào mùa đông và đun nước uống hàng ngày hoặc tiếp khách. Bếp
này người phụ nữ trong gia đình ít khi được ngồi hoặc sử dụng, trừ phụ nữ cao
tuổi như bà, cụ hay con gái út được yêu quý nhất.
Gian cuối cùng là nơi dành cho phụ nữ
sinh hoạt có chạn bát, để đồ dùng gia đình, nơi sửa soạn cơm nước. Gian này được
ngăn với các gian khác trong nhà bởi một tấm liếp. Đây cũng là nơi người phụ nữ
thay quần áo và ngủ nghỉ. Đầu hồi nhà, người Mường để một cái cối đuống và một
cối tròn. Cối đuống không chỉ dùng để giã thóc gạo mà còn là phương tiện để gia
đình báo nhà có việc lớn như đám cưới mà tang ma. Bên cạnh đó, cối đuống còn là
một nhạc cụ sử dụng để gõ những bản nhạc vui trong ngày lễ tết, hội hè với những
bản đuống rộn ràng âm vang, người Mường gọi là "đâm đuống" hay
"châm đuống". Dưới sàn nhà, người Mường nuôi gà, trâu hoặc để cất các
công cụ sản xuất như cày, cuốc, liềm, nong, nia… Nhà của người Mường thường chỉ
có một cầu thang. Song những ngôi nhà dài từ 7 - 12 gian thì phải làm hai cầu
thang ở hai đầu nhà. Những nhà có hai cầu thang như vậy khá hiếm vì người Mường
quan niệm đó là sự xui xẻo, kiêng kị, của nả sẽ không giữ được trong nhà
"vào đầu này ra đầu kia".
Trang phục
Trang phục dân tộc Mường (ảnh chụp tại
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam)
Người Mường có đặc trưng riêng về tạo
hình và phong cách thẩm mỹ trên trang phục.
Thầy mo khi hành lễ mặc y phục
riêng. Ðó là chiếc áo dài 5 thân cài khuy bên nách phải, nhuộm màu xanh hoặc
đen, thắt dây lưng trắng, đội mũ vải nhọn đầu. Thầy mỡi khi cúng chữa bệnh thường
đội mũ chầu.
Trang phục nam
Nam mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn,
cúc sừng vai, hai túi dưới hoặc thêm túi trên ngực trái. Đây là loại áo cánh ngắn
phủ kín mông. Đầu cắt tóc ngắn hoặc quấn khăn trắng. Quần lá tọa ống rộng dùng
khăn thắt giữa bụng còn gọi là khăn quần. Xưa có tục để tóc dài búi tóc. Trong
lễ hội dùng áo lụa tím hoặc tơ vàng, khăn màu tím than, ngoài khoác đôi áo chúng
đen dài tới gối, cái cúc nách và sườn phải.
Trang phục nữ
Bộ y phục nữ đa dạng hơn nam giới và
còn giữ được nét độc đáo. Khăn đội đầu là một mảnh vải trắng hình chữ nhật
không thêu thùa, yếm, áo cánh (phổ biến là màu trắng) thân rất ngắn thường xẻ ở
ngực và váy dài đến mắt cá chân gồm hai phần chính là thân váy và cạp váy. Cạp
váy nổi tiếng bởi các hoa văn được dệt kỳ công. Trang sức gồm vòng tay, chuỗi hạt
và bộ xà tích 2 hoặc 4 giây bạc có treo hộp quả đào và móng vuốt hổ, gấu bịt bạc.
Áo mặc thường ngày có tên là áo pắn
(áo ngắn). Đây là loại áo cánh ngắn, xẻ ngực, thân ngắn hơn so với áo cánh người
Kinh, ống tay dài, áo màu nâu hoặc trắng (về sau có thêm các màu khác không phải
loại vải cổ truyền). Bên trong là loại áo báng, cùng với đầu váy nổi lên giữa
hai vạt áo ngắn. Đầu thường đội khăn trắng, xanh với phong cách không cầu kỳ
như một số tộc người khác. Váy là loại váy kín màu đen. Toàn bộ phận được trang
trí là đầu váy và cạp váy, khi mặc mảng hoa văn nổi lên giữa trung tâm cơ thể.
Đây là một phong cách trang trí và thể hiện ít gặp ở các tộc khác trong nhóm
ngôn ngữ và khu vực láng giềng (trừ nhóm Thái Mai Châu, Hòa Bình do ảnh hưởng
văn hóa Mường mà mặc thường ngày tương tự như họ). Nhóm Mường Thanh Hóa có loại
áo ngắn chui đầu, gấu lượn, khi mặc cho vào trong cạp váy và cao lên đến ngực.
Phần trang trí hoa văn trên cạp váy gồm các bộ phận: rang trên, rang dưới, và
cao. Trong các dịp lễ, Tết, họ mang chiếc áo dài xẻ ngực thường không cài khoác
ngoài bộ trang phục thường nhật vừa mang tính trang trọng vừa phô được hoa văn
cạp váy kín đáo bên trong. Nhóm mặc áo cánh ngắn xẻ ngực thường mang theo chiếc
yếm bên trong. Về cơ bản giống yếm của phụ nữ Kinh nhưng ngắn hơn.
Hoạt động kinh tế truyền thống
Nông nghiệp ruộng nước chiếm vị trí
hàng đầu, cây lúa là cây lương thực chính. Công cụ làm đất phổ biến là chiếc
cày chìa vôi và chiếc bừa đơn, nhỏ có răng bằng gỗ hoặc tre. Lúa chín dùng hái
gặt bó thành cum gùi về nhà phơi khô xếp để trên gác, khi cần dùng, lấy từng
cum bỏ vào máng gỗ, dùng chân chà lấy hạt rồi đem giã. Trong canh tác ruộng nước,
người Mường có nhiều kinh nghiệm làm thuỷ lợi nhỏ.
Ngoài ruộng nước, người Mường còn
làm nương rẫy, chăn nuôi gia súc, săn bắn, đánh cá, hái lượm và sản xuất thủ
công nghiệp (dệt vải, đan lát...).
Cụ thể như sau:
Nghề nông trồng lúa nước]
Nghề nông trồng lúa nước được tiến
hành ở những nơi có địa bàn bằng phẳng gần sông, ngòi. Đó là những mảng đồng bằng
thung lũng hay những doi đất nhỏ hẹp dưới chân các dãy núi, ven các đồi gò thấp.
Người Mường Thanh Sơn rất coi trọng cây lúa nếp, vì trong cuộc sống, bữa ăn
truyền thống thì cơm nếp là nguồn lương thực chủ đạo. Bên cạnh đó, người Mường
còn trồng cả lúa tẻ và ngày càng phổ biến giống lúa này cho năng suất cao.
Ngoài những thửa ruộng nước ở đồng bằng, người Mường đa phần làm ruộng bậc
thang tận dụng đất ở sườn, chân đồi gò. Loại ruộng này thường hẹp về chiều rộng
nhưng lại dài như những cánh cung vòng quanh các đồi gò. Do ruộng bậc thanh làm
ở trên cao, nguồn nước tưới tiêu khó khăn nên người Mường Thanh Sơn biết đào mương
bắc máng, làm guồng xe nước lợi dụng dòng chảy của các con sông, suối, ngòi để
đưa nước lên cao, cung cấp cho những thửa ruộng dài ngoằn nghèo. Ruộng bậc
thang chủ yếu chỉ trồng được một vụ trong năm là vụ mùa. Các vụ khác người Mường
dùng để trồng ngô, khoai, rau… Những loại hoa màu này thích hợp với mùa khô ít
nước. Một loại ruộng mà người Mường Thanh Sơn biết tận dụng khai phá để trồng
lúa gọi là ruộng chằm, ruộng rộc. Đây là những thửa ruộng ở nơi đầm lầy dưới là
bùn loãng, nước còn ở mặt trên cùng cỏ dại mọc thành tầng, thành lớp. Ruộng chằm
– rộc thường rất sâu, đến thắt lưng thậm chí còn đến ngực. Do đó, ruộng loại
này thường rất khó khăn trong canh tác vì không thể cày bừa dễ dàng như ruộng bậc
thanh hay ruộng nước ở đồng bằng. Để thuận lợi làm ruộng cũng như thu hoạch,
người Mường thường phải chặt chuối, tre làm thành bè để bám hoặc gối lên làm cỏ,
cấy hay gặt. Tuy vậy, do điều kiện không có nhiều diện tích thuận lợi cho canh
tác nông nghiệp thì những loại ruộng chằm ruộng rộc cũng chiếm một vị trí khá
quan trọng trong cuộc sống của người Mường.
Nương rẫy
Bên cạnh những thửa ruộng nước, người
Mường Thanh Sơn còn đốt nương làm rẫy với hình thức lao động lạc hậu kiểu chọc
lỗ tra hạt. Người Mường có kinh nghiệm quý trong việc chọn đất làm nương rẫy. Họ
chọn những mảng rừng có giang, nứa mọc dày, trồng mùn màu mỡ hay những vạt đất
đen ven đồi núi. Khi chọn đất, người Mường thường chặt một cây nứa hoặc cây gỗ
vát nhọn đâm xuống đất. Nếu đâm được sâu thì điều đó chứng tỏ tầng mùn dày. Một
kinh nghiệm nữa là xem đất màu gì, nếu đất dính vo trên tay thấy mềm dẻo, bóng
như pha mỡ là đất tốt. Chọn được mảng rừng đồi ưng ý, người Mường Thanh Sơn tiến
hành chặt khoanh vùng để phân giới không cho người khác lấy mất. Người Mường đốt
mảng rừng này để lấy mùn và tiện lợi cho việc dọn nương. Công việc gieo trồng
tiến hành vào khoảng tháng 3- tháng 4 khi bắt đầu xuất hiện những cơn mưa đầu
tiên. Người Mường Thanh Sơn trồng lúa nương không bằng cày cuốc mà bằng cách lấy
một đoạn cây to bằng cổ tay vót nhọn một đầu dùng để đâm hố tra hạt. Gieo giống
xong, họ chặt ngọn nứa, cành cây nhỏ để quét lớp mùn bề mặt lấp các hố lại. Việc
gieo trồng lúa nương tương đối đơn giản nhưng lại đòi hỏi nhiều công sức, đặc
biệt là làm cỏ cũng như trông nom không để chim thú phá hoại. Trong làm nương rẫy,
người Mường Thanh Sơn đặc biệt có ý thức hạn chế hoả hoạn cháy rừng tràn lan.
Điều này bắt nguồn từ quan niệm truyền thống "vạn vật hữu linh". Theo
người Mường, rừng núi, cây cối, dòng sông, suối… cũng có linh hồn, do thần linh
hoặc ma quỷ cai quản. Cho nên, họ tránh làm nương rẫy ở những vạt rừng, cây cổ
thụ coi là linh thiêng- nơi ngự trị của thần rừng, thần cây mặc cho đất đai ở
đó có màu mỡ tơi xốp đến đâu. Từ quan niệm đó mà trong lao động sản xuất của
người Mường nói chung, người Mường Thanh Sơn nói riêng có nhiều tục lệ lễ nghi
nông nghiệp như tục rước vía lúa, lễ cầu mùa, lễ mừng cơm mới cho đến tục đóng
cửa rừng và mở cửa rừng … kèm theo lệ cấm kiêng kị mang tính chất siêu nhiên
linh thiêng.
Một số nghề phụ khác
Cùng với nghề nông trồng lúa (lúa
nương và lúa nước) làm chính, người Mường Thanh Sơn còn tăng gia sản xuất với
những hoạt động kinh tế phụ gia đình, từ chăn nuôi, làm vườn, dệt vải, đan
lát.. đến săn bắn và hái lượm. Cần phải nói rằng mặc dù những hoạt động này
không phải là lao động sản xuất chính nhằm đảm bảo cuộc sống của người Mường
Thanh Sơn nhưng những nghề phụ này lại đóng vai trò tương đối quan trọng trong
việc cung cấp nhu yếu phẩm trong đời sống hàng ngày của họ.
Chăn nuôi
Những đàn gia súc, gia cầm thường được
người Mường nuôi thành bầy đàn thả dông trong rừng. Người Mường Thanh Sơn nuôi
gia súc chủ yếu là trâu, bò ngoài cung cấp thực phẩm trong những ngày hội trọng
đại còn dùng làm sức kéo trong lao động sản xuất. Đối với người Mường, trâu bò
có vị trí đặc biệt trong đời sống thường ngày vì đối với họ chúng là cả tài sản,
cơ nghiệp, phản ánh tiềm lực kinh tế từng nhà trong bản và bản này với bản
khác. Trâu bò chăn thành bầy đàn trong rừng lâu ngày đôi khi đem đến những điều
ngạc nhiên thú vị về số lượng tăng giảm do sự sinh nở của chúng. Bên cạnh đó,
người Mường Thanh Sơn còn nuôi lợn, gà để lấy thịt trứng. Chúng cũng được người
Mường nuôi thả thành bầy. Người Mường Thanh Sơn không có thói quen làm chuồng
trại riêng cho gia súc, gia cầm. Họ thắt buộc những con trâu bò dùng để cày bừa
dưới gầm sàn và làm chuồng trại cho gia cầm. Riêng đối với lợn, họ không mấy
khi nhốt dưới sàn nhà mà được làm chuồng ở xa nhà, xa nguồn nước. Người Mường
Thanh Sơn còn biết tận dụng ao hồ, sông ngòi để nuôi thả cá. Tuy vậy do địa bàn
cư trú bán trung du và miền núi nên ao hồ ở nơi người Mường ở xuất hiện ít. Họ
chủ yếu dựa vào đánh bắt cá, tôm tự nhiên ở sông, suối và các chi lưu của nó.
công cụ dùng để đánh bắt chủ yếu là lưới, đó, đăng, chũm. Song có lẽ kiểu đánh
bắt cá truyền thống của người Mường Thanh Sơn là dùng một thứ lá có độc gọi là
lá cơi giã nhuyễn dải xuống một khúc suối ngòi đề làm cho cá tép say nổi lên mặt
nước rồi bắt đem về.
Nghề vườn
Người Mường nói chung và người Mường
Thanh Sơn nói riêng không chú ý lắm đến hiệu quả kinh tế vườn đem lại. Vườn của
người Mường Thanh Sơn trồng đủ các loại cây như cau, mít, bưởi, chuối, khế,
chanh, trầu, tre, bương, chuối… Có thể nói, ngoài các hình thức lao động kiếm sống
phụ khác, mảnh vườn trở nên gắn bó thân thiết với người Mường như một phần của
cuộc sống. Với người Mường Thanh Sơn, hầu như nhà nào cũng có mảnh vườn nhỏ đủ
để trồng cây quanh nhà, mỗi thứ một ít để phục vụ cho gia đình theo kiểu mùa
nào thức ấy. Phụ nữ trong gia đình rất chăm lo đến các loại cây trồng trong vườn.
Đôi khi những người đàn ông cũng rất thích thú với mảnh vườn quanh nhà của
mình. Họ quyết định các giống cây trồng và quan tâm đến chúng. Tuy vậy, vườn của
người Mường Thanh Sơn chủ yếu vẫn là loại vườn tạp. Song ngày nay, những cây trồng
trong vườn dần được người Mường lưu ý đến giá trị kinh tế. Họ trồng các giống
cây cho năng xuất và hiệu quả kinh tế cao như nhãn, vải hoặc tranh, quýt để bán
ra thị trường. Chính vì lẽ đó, người Mường Thanh Sơn ngày càng chú ý cải tạo mảnh
vườn nhỏ bé của mình. Ngoài vườn nhà, người Mường Thanh Sơn còn tận dụng cả những
vạt đất nhỏ ven bờ suối, ngòi để dễ tưới nước chăm bón. Họ trồng các loại rau,
củ, quả như khoai, cà, bí, cải để cải thiện bữa cơm vốn đơn giản của mình. Người
Mường Thanh Sơn đã biết trồng cây xen canh luân vụ, ngoài việc cải thiện bữa ăn
hàng ngày thì người Mường Thanh Sơn còn làm vườn với mục đích phát triển kinh tế
hộ gia đình, tăng thu nhập hàng năm.
Nghề thủ công gia đình
Một số vật gia dụng và đồ tế lễ
trưng bày trong Lễ hội Văn hóa Mường tại Hòa Bình
Người Mường Thanh Sơn đặc biệt khéo
tay trong việc đan lát các vật dụng dùng trong gia đình từ nguyên liệu là tre,
nứa và giang, mây như đan vỏ dao dùng để đi rừng, rổ, rá, thúng, nia, mâm, ớp,
giỏ… Trong các nghề thủ công truyền thống của người Mường đầu tiên phải kể đến
là nghề dệt vải. Trong mỗi gia đình Mường Thanh Sơn đều có các khung cửi dùng để
dệt vải bông, vải lanh để phục vụ may mặc cho các thành viên. Công việc trồng
bông và dệt vải chủ yếu do nữ giới đảm nhận. Tuy nhiên, nghề dệt vải ở người Mường
chưa mang nhiều yếu tố hàng hoá. Họ chủ yếu sản xuất lúc nông nhàn mà chưa dành
thời gian đáng kể cho nó. Trong vùng Mường Thanh Sơn, các xã nổi tiếng về dệt vải
đẹp phải kể đến các xã như Minh Đài, Xuân Đài, Lai Đồng, Tất Thắng, Cự Đồng…
Nguyên liệu dùng để dệt vải ngoài bông, lanh còn có tơ tằm. Nghề trồng dâu, sắn
nuôi tằm tương đối phổ biến trong mỗi gia đình. Bên cạnh đó, nghề mộc cũng
tương đối phát triển. Hầu như ở bản làng nào của người Mường đều có đội mộc
riêng của mình để phục vụ trong xây dựng nhà cửa, đình miếu hoặc làm hậu sự cho
lễ tang… Đàn ông Mường rất khéo tay trong nghề này. Họ làm ra những sản phẩm
tương đối độc đáo như bao dao, làm cung, nỏ, đồ thổi xôi từ gỗ và các vật dụng
khác phục vụ cho cuộc sống.
Khai thác nguồn lợi từ thiên nhiên
Săn bắn và hái lượm là hoạt động
kinh tế phụ gắn bó với cuộc sống thường ngày của người Mường Thanh Sơn. Nguồn
rau rừng như rau tàu bay, rau rớn, rau vi, đắng cảy, măng giang, măng nứa… được
khai thác một cách hợp lý để có thể cung cấp lâu dài. Các cây củ cho bột như củ
nâu, củ mài, củ vớn … chỉ được người Mường Thanh Sơn khai thác và những năm đói
kém, mất mùa. Việc thu hái rau rừng thường được thực hiện cùng với các công việc
khác như lấy củi, đi nương rẫy hoặc lấy rau lợn… Họ tranh thủ làm việc này sau
khi đã hoàn tất các công việc khác mà theo họ là quan trọng hơn. Hoạt động săn
bắn chim thú, bổ sung cho bữa ăn là công việc thường xuyên và là đặc quyền của
người đàn ông Mường. Ngoài ra, săn bắn còn xuất phát từ nhu cầu của việc bảo vệ
nương rẫy khỏi sự phá hoại của chim thú cũng như việc mất mát các con vật nuôi.
Trong gia đình người Mường, người đàn ông thường có những chiếc nỏ súng cho
riêng mình. Họ rất tự hào và chăm sóc chu đáo cho dụng cụ mà họ cho rằng thể hiện
nam tính cũng như vai trò của mình trong gia đình. Con trai Mường ngay từ nhỏ
đã được ông, cha cho theo trong mỗi lần đi săn, làm bẫy thú nên khi lớn lên rất
thạo việc săn bắn. Người Mường biết làm nhiều loại bẫy thú với những kiểu dáng
khác nhau để bẫy những con thú lớn, thú nhỏ và chim. Trong các loại bẫy của người
Mường Thanh Sơn, thông dụng nhất là bẫy đâm, bẫy lao và bẫy sập. Loại bẫy này
dùng để bẫy các con thú lớn như hươu, nai, gấu hoặc lợn rừng. Còn các loại bẫy
nhỏ như "ngọ đánh", "ngọ cắp", "ngọ rô" dùng để bắt
các con thú nhỏ như gà rừng, chim, sóc… được đặt quanh nương rẫy để bảo vệ hoa
màu. Đặc biệt, những sản phẩm người Mường Thanh Sơn thu từ rừng không chỉ đủ
dùng trong gia đình mà còn được dùng để trao đổi với các lái buôn từ miền xuôi
như măng, mộc nhĩ, nấm, trầm hương, sa nhân, cánh kiến, các loại gỗ quý như
đinh, lim, táu, lát, xửa, kháo trắng, kháo vàng, treo, chò… và các loại dược liệu
quý như đẳng sâm, khúc khắc, hoài sơn… Người Mường đổi những sản phẩm từ khai
thác rừng để lấy những vật dụng dùng trong gia đình như muối, dầu thắp, kim chỉ,
kiềng, bát địa, xoong nồi, dao, cuốc, gương lược. Bên cạnh đó, hàng năm, người
Mường còn bán cho các lái thương một số lượng lớn trâu bò. Hoạt động buôn bán
ngày càng len lỏi vào tận các bản mường xa, từng bước tạo nên mối quan hệ giữa
miền xuôi và miền ngược, giữa người Mường, người Kinh và các dân tộc khác, góp
phần vào giao lưu văn hoá - kinh tế giữa các tộc người gần gũi nhau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét