Theo phong tục người Thái đen, cô dâu về nhà chồng phải
tiến hành làm lễ búi tóc “Tằng cẩu”.
Hôn nhân của người Thái đen Tây Bắc là
hôn nhân theo kiểu phụ hệ. Nguyên tắc cơ bản của hôn nhân là ngoại hôn dòng họ
và hôn nhân một vợ một chồng bền vững. Xưa kia người Thái chỉ kết hôn với người
Thái, nhưng ngày nay việc lấy vợ lấy chồng dân tộc khác cũng được chấp nhận với
điều kiện: dâu, rể của các dân tộc khác phải tôn trọng phong tục tập quán của
người Thái.
Một đám cưới cổ của người Thái Mường Lò
được tổ chức qua 6 bước: “Chóm pạư” - Thăm dò, “Pay tham pạư” - Đi ăn hỏi, “Khắt
mák pú nợ” - Cắm lá trầu bé, “Khắt mák pú luông” - Cắm lá trầu lớn, “Tỏn pạư” -
Đón dâu, “Ngái hua păn chường khá” - Tiệc đầu nhận lễ. Trong đó, lễ đón dâu rất
được coi trọng. Đây là bước quan trọng nhất, được cả nhà trai và nhà gái tiến
hành rất thận trọng, bởi từ giây phút trọng đại này, cô dâu chính thức trở
thành một thành viên của nhà trai, từ đây hai gia đình đều chung tay giữ gìn cho
bếp lửa gia đình đôi trẻ mãi nồng ấm.
Nhà trai đem lễ vật sang nhà gái gồm:
100 kg - 120 kg lợn hơi; một con lợn từ 3 kg - 5 kg mổ sẵn để thờ bên ngoại bố
mẹ vợ; 10l - 120l rượu, 40 kg - 50 kg gạo nếp ngon; 10 con gà, trong đó bốn con
mổ sẵn gói thành bốn gói, từng đôi một; 4 gói xôi; 12 ống cá hoặc thịt; 10 gắp
cá xấy; 1 gắp trứng; 1 túi vải nhỏ vừng; 2 đôi vòng bạc, trong đó một đôi cho
cô dâu; 1 chiếc lược sừng; 2 lọn tóc của bà, của mẹ gom sau mỗi lần chải và 1
chiếc trâm bạc để tằng cẩu; 80 miếng trầu têm sẵn gói trong 4 gói; 4 gói thuốc
lào; 1 buồng cau; 80 lá trầu tươi kèm vỏ để ăn trầu; 1m vải đỏ; tiền công rể
(800 đến 1.000.000 đồng ngày nay).
Nhà gái chuẩn bị lễ vật cho nhà trai: Từ
10 đến 12 chiếc đệm, 10 đến 12 chiếc chăn, 1 chiếc màn đen, 1 đến 2 chiếc hòm gỗ
để đựng vải tự dệt, 2 chiếc bem đan bằng song, mây để đựng quần áo và đồ trang
sức, 20 đến 30 chiếc đệm ngồi, 30 đến 40 chiếc gối, 2 chiếc áo dài - “sửa co
long” tặng bố và mẹ chồng (những áo này cô dâu chỉ mặc khi bố, mẹ chồng qua đời
và treo trên cây cảo bên mộ).
Bước tiếp theo là: “Khửn cẩu” hay còn gọi
là: “Tằng cẩu” tức là búi tóc. Lễ này tiến hành tại nhà gái trước khi diễn ra lễ
đón dâu vài giờ. Trước đó cô dâu gội đầu bằng nước vo gạo nếp cùng các loại lá
thơm. Khi gội cô dâu được hai cô phù dâu giúp, xõa tóc thả xuống dòng nước gội
đầu, vừa như ước mong mọi điều rủi ro sẽ trôi đi, chỉ còn lại trên đầu con vía
tốt lành - “khuôn hua”. Gội xong, cô dâu được các cô phù dâu dìu về ngồi ngay
ngắn trên sàn nhà, quay về phía mặt trời mọc, người dì (em mẹ chồng) khỏe mạnh,
đức độ tằng cẩu cho cháu dâu (người tằng cẩu gọi là “nai cẩu”) trước sự chứng
kiến của hai họ. Búi xong, “nai cẩu” gài trâm vào búi tóc và hát: “Mái tóc dài,
chải cho mượt/ Búi ngược lên thành “Tằng cẩu”/ Từ nay về sau, người đã có chồng/
Nước không đổi dòng/ Lòng không đổi hướng, con ơi”.
Trong lễ vật của nhà trai, bao giờ cũng
có hai búi tóc của bà, của mẹ chồng lựa gom sau mỗi lần chải cùng một chiếc
trâm bạc, lúc này được búi cùng tóc của cô dâu. Từ nay cô dâu chỉ buông tóc xuống
khi gội, ai tự ý thả xuống bị cộng đồng cho là người hư hỏng. Trách nhiệm, đạo
lý mang tính truyền thống được trao cho cô dâu mới được biểu đạt vô cùng tinh tế.
Lúc này nhà trai làm tiếp các thủ tục
như: Trải chăn đệm cho đôi vợ chồng trẻ - “sú phả”, nộp tiền công ở rể - “nộp
ngướn công khươi”, bày mâm để trao tặng đôi vòng bạc cho bố mẹ vợ - “tánh khảu
khen”, vải tặng mẹ vợ có ý biết ơn công mang nặng đẻ đau, nuôi dạy người vợ
thân yêu của mình - “phả tốm kháư tốm ưn”, xin của cải nhà gái - “so sính so
khong”, giao rể - “nộp khươi” và mời nhà gái sang nhà trai dự mừng vía - “so
lúng ta tom khảu tám khuôn”... Đại diện nhà trai hát bài: “Chốm pạư” - mừng
dâu: Xin ngọn mía đi trồng kề vườn rau/ Xin ngọn mía đi trồng vườn gừng/ Xin
con gái đầu, con gái út của ông bà/ Xin con dâu nhất dâu nhì về làm trụ cột
trong nhà/ Nhà tôi dù gió to không cũng xiêu, không đổ/ Dù mưa lớn không thể gẫy,
không dột nát/ Về nhà tôi sẽ có sức khỏe ra suối bắt cá/ Ở nhà tôi tuổi càng
cao càng mạnh khỏe/ Thóc gạo luôn đầy bồ/ Nhà gái có thương hãy gả con cho nhà
tôi/ Nếu số mệnh chưa cân, ông trời sẽ làm cho cân/ Nếu vía chưa bằng, ông trời
sẽ làm cho bằng/ Mai sau dù có giận nhau một tý rồi cũng sẽ yên lành, hạnh phúc!
Nhà gái hát bài: “Chốm khuôn” - mừng hồn
vía dâu rể: “Gửi dâu lên nhà cô/ Dặn dò từ lúc con gái khi lấy chồng sẽ quen/
Con gái chúng tôi có gì vô ý xin đừng để bụng/ Xin hãy dạy từ nương về ruộng, dạy
từ ruộng về nhà/ Gian của bố chồng đừng nằm/ Gối ông bác đừng gối/ Váy áo đừng
phơi sàn cao/ Sàn cao là sàn của bố chồng/ Con khóc đừng rủa con chết/ Con chết
không gì bù đắp nổi/ Con khóc lựa lời dỗ, gõ cây thổi sáo cho con nghe…”.
Bên nhà trai hát xin của: “Xin được dâu
rồi muốn xin nữa/ Xin từ đũa từ bát/ Xin từ chiếc mâm chiếc vại/ Xin từ chiếc
màn viền vải đỏ/ Xin cả chiếc dây để căng bức rèm/ Xin từ giống dê tốt Mường
Bú/ Xin cả giống trâu sừng cong/ Trâu khéo cầy ruộng, ruộng mới tốt…”.
Bên gái lịch sự hát cho của, nhà gái
nhún mình kêu nghèo khó, nhưng rồi cũng sẽ lo liệu đầy đủ những gì nhà trai yêu
cầu. Gọi là “xin” và “cho”, thực chất là sự biết ơn với bậc sinh thành, hai họ
cùng nhau vun vén cho đôi vợ chồng trẻ có đủ điều kiện ban đầu của cuộc sống mới.
Cuối cùng nhà trai hát mời ông bà thông gia cùng đến nhà trai mừng dâu rể.
Cuối cùng nhà trai hát mời ông bà thông gia cùng đến nhà trai mừng dâu rể.
Đúng giờ tốt, lễ đưa dâu tiến hành, nhà
trai cử người khiêng lễ vật nhà gái tặng. Trước khi đưa dâu, bà mối của nhà
trai đưa cho bà mối của nhà gái số tiền tương đương với 50.000 đồng ngày nay,
tiền này khi cô dâu đến nhà trai sẽ được đặt vào mâm cúng, gọi là tiền mừng vía
dâu rể - “ngớt tám khảu”. Khi đoàn người đón, đưa dâu tới nơi, nhà trai trải
chiếu bên trong cửa chính, trên có mâm với những chén rượu đã rót đầy, mỗi người
đưa dâu của nhà gái đều được mời cạn một chén và ăn một miếng trầu để tỏ tình
thân thiện rồi mới được vào nhà, tục này gọi là “Lảu suối tin” - rượu rửa chân,
mang ý nghĩa từ nay hai nhà coi nhau như ruột thịt, mọi người khỏe mạnh, không
đau gối chồn chân, những bụi bặm đời thường được rửa sạch để từ nay chung tay
xây dựng cuộc sống mới.
Khi cô dâu vào nhà, bà mối hai bên cùng
đưa cô dâu đến quỳ trước bàn thờ tổ tiên khấn lạy ba vái để báo cáo, rồi đi lạy
từng mâm cỗ, những người đến dự ở từng mâm nhẹ nhàng chúc tụng và khuyên bảo
đôi vợ chồng trẻ điều hay, lẽ phải, tục này gọi là: “Paự ók nả ro quám bok quam
son” - ra mắt xin lời dạy bảo. Sau khi lạy hết các mâm, hai vợ chồng lại đi lạy
từng mâm rượu lần nữa, với mục đích xin con xin cái - “So nó so nin”, có nghĩa
là: Xin măng xin chàm, ngụ ý xin con. Khi dâu rể lạy xong, những người ngồi mâm
rượu uống mỗi người một chén rồi bỏ tiền mừng vào một chiếc đĩa kèm theo bốn
chén rượu, đưa dâu rể uống mỗi người một chén để lấy lộc sinh con, hai bà mo
cũng uống, mọi người vui vẻ chúc mừng dâu rể.
Gian nhà ngủ của dâu rể được sắp sẵn hai
mâm cỗ, mâm trên bày thức ăn đã chế biến, mâm dưới là thủ lợn, bốn chân giò,
tim, gan… một chiếc vòng cổ bằng bạc đặt vào thủ lợn - chiếc vòng cổ này của mẹ
chồng cho dâu sau khi cúng xong. Có hai ngọn nến được thắp lên, hai nén hương cắm
vào bát gạo, bà mo bắt đầu cúng hồn vía cho dâu rể, mâm này được gọi là: “Pán
khuôn” - mâm cúng hồn vía . Ngồi mâm này gồm có anh em họ hàng thân cận nhất của
hai bên thông gia. Họ bên trai ngồi trong mâm phải bỏ tiền vào đĩa để mừng vía,
số tiền này theo khả năng từng người, gọi là tiền mừng vía dâu rể - “Chốm khuôn
pạư”. (Người Thái quan niệm hai ngọn nến cháy hết và thẳng hoặc nghiêng vào
nhau là điềm lành, ngược lại hai vợ chồng trẻ sẽ trải qua nhiều khó khăn, trở
ngại).
Tiệc vui tiếp tục, bên trai hát bài “chốm
pạư” - mừng dâu và các bài “chốm khuôn” - mừng hồn vía dâu rể, “đa nén” - xem số
thọ… Bên gái hát bài “chốm đa nén” - cảm ơn lời cầu và nhiều bài giao duyên
khác. Những lời hát nhẹ nhàng, tinh tế, đầy ẩn ý với những triết lý nhân sinh
được đúc rút từ ngàn đời làm cho mỗi người thêm thấm hơn nghĩa vụ và trách nhiệm
trước cuộc sống.
Từ ngàn xưa, đám cưới của người Thái Tây
Bắc luôn phải tuân theo những qui định như vậy và được các thế hệ tôn trọng,
nâng niu, thể hiện khát vọng sống, ước mong một cuộc sống mãi mãi hạnh phúc, ý
thức của mọi người và cộng đồng trong việc xây dựng một gia đình hạnh phúc.
Ngày nay lễ cưới của người Thái Tây Bắc đã có nhiều thay đổi, những thủ tục phiền
hà, lạc hậu được thay bằng những nét văn minh, tiến bộ, nhưng vẫn giữ được những
nét đẹp văn hóa cổ truyền của một nền văn hóa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét