Người Xá Phó nằm trong thành phần dân tộc
Phù Lá, thuộc ngữ hệ Tạng - Miến. Họ sống rải rác ở một số vùng núi cao của tỉnh
Lào Cai, như Nậm Sài (huyện Sa Pa); Dương Quỳ, Tăng Hốc (Văn Bàn); Gia Phú, Bến
Đền (Bảo Thắng); Tả Phời, Làng Dạ (Cam Đường) và ở các tỉnh Lai Châu, Yên
Bái... Tổng nhân khẩu hiện nay có khoảng trên 2.637 người.
Tên gọi lịch sử trước kia của tộc người Xá
Phó là “Lao Pạ” dịch nghĩa là “Tộc người săn thú” hay “Gu Nhu” nghĩa là người rừng.
Ngoài ra, còn có một số tên gọi khác mà các dân tộc láng giềng đặt cho như: Xá
Phu, Pú Dang, Pu La, Bổ Phi Pạ, Mạc Pạ, Mù Dí Pạ Phổ, Va Sơ Lao…
Theo nghiên cứu sơ bộ thì người Xá Phó có
mặt ở Tây Bắc (Việt Nam) đến nay vào khoảng hơn 300 năm. Trước đây họ sống du
canh, du cư từng nhóm nhỏ săn bắn và hái lượm dọc theo các con suối. Hiện nay
người Xá Phó sống quy tụ theo từng bản nhỏ, mỗi bản có từ 25-30 nóc nhà. Nhà ở
của người Xá Phó được thiết kế theo kiểu nhà sàn, có nơi nửa sàn nửa đất, nhà ở
3 gian nhưng nhỏ và thấp, bàn thờ đặt chính gian giữa, gian bếp đồng thời cũng
là gian khách, ngoài ra còn có nhà phụ cách nhà chính từ 5-10m để thóc lúa. Người
Xá Phó có một số dòng họ chính, như: họ Nhìu, họ Lồ, họ Lý, họ Ngô…
Về trồng trọt: Nguồn sống chính hiện nay của
người Xá Phó là canh tác ruộng nương bậc thang, trồng các loại lúa nương, đặc
trưng vẫn là gạo nương đỏ, gạo nếp cẩm để làm rượu cần, ngoài ra còn trồng một
số cây lương thực phụ, như: ngô, sắn, đao, cao lương, bí đỏ, các loại rau, đậu
tương, bầu, bí, khoai sọ… Nông lịch của người Xá Phó được tính theo lịch âm.
Chăn nuôi: Các con vật chính được chia
thành loại gia súc lớn, như: trâu, bò, ngựa; gia súc nhỏ, như: lợn, gà, vịt,
ngan, ngỗng và đặc biệt đồng bào chăn nuôi dê núi để phát triển kinh tế, cho năng
suất cao. Có thể nói dê là con vật để xóa đói giảm nghèo.
Trang phục: Phụ nữ người Xá Phó mặc váy
dài, cổ áo khoét vuông, đầu vấn khăn, váy được thêu thùa với những đường nét
hoa văn cầu kỳ, các gam màu chủ đạo gồm: vàng, đỏ, xanh… điểm xuyết thêm hạt cườm
chạy dài theo cổ và tay áo, những hình nét hoa văn như hình cây thông, hình
răng bừa, hình bàn tay khỉ, hình quả trám… nổi bật trên nền vải đen và mang một
nét thẩm mỹ hài hòa, độc đáo.
Nam giới người Xá Phó mặc áo xẻ nách, hở
ngực, quần ống xéo. Đồ trang sức của nam và nữ đều làm bằng vỏ ốc núi, nanh lợn
rừng. Phụ nữ thường nhuộm răng đen và ăn trầu.
Các nghề truyền thống: Phát triển nhất vẫn
là nghề mây tre đan, nhất là các đồ gia dụng như gùi, mân, giỏ bắt cá… Các nghề
đan lát chài lưới cũng đạt đến độ tinh xảo. Đặc biệt là nghề trồng bông dệt vải
và các công đoạn để làm ra vải mặc, tự cung tự cấp trong cộng đồng.
Người Xá Phó sống quy tụ theo cộng đồng, mọi
sinh hoạt đều mang tính chất tập thể. Mỗi bản, mỗi thôn đều có một người già
làng, trưởng bản có uy tín để giải quyết các công việc trong cộng đồng. Hôn
nhân người Xá Phó theo chế độ phụ hệ, con mang họ bố, nhưng đặc biệt họ có
phong tục ở rể thường từ 2-3 năm để “trả công ơn bố mẹ đã sinh ra con gái”.
Các ngày Tết và lễ hội chính của người Xá
Phó: ngoài Tết Nguyên đán, Tết rằm tháng 7 thì người Xá Phó còn có Tết Khui
Xmơ, các lễ tết cúng thần rừng, thần làng, thần sông, suối, lễ quét làng, cúng
hồn lúa… Hầu hết các lễ tết đều gắn với sinh hoạt cộng đồng như nhẩy múa điệu
T’xin chi va (những nhạc cụ chính để bổ trợ cho các điệu múa là sáo Pí lí, kèn
Ma Nhí, trống, quả chuông nhạc), múa cầu mùa và múa phồn thực, hát kể diễn xướng
tùy theo nội dung lễ hội.
Người Xá Phó có một kho tàng truyện cổ
tích, văn hóa dân gian hết sức phong phú. Hầu hết các bài tục ngữ, ca dao nói về
triết lý của cuộc sống và đạo lý làm người, các câu chuyện kể về thế giới thần
linh, về các hiện tượng, sự tích liên quan đến phong tục, tập quán và tín ngưỡng
cộng đồng.
Mã Thị Hà (sưu
tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét