Các đôi trai gái dân tộc Cống nao nức trong mùa cưới
Người Cống ở tỉnh Điện Biên là một dân tộc
thiểu số có dân số tương đối ít (theo số liệu thống kê năm 2009 là 871 người),
sinh sống tập trung tại 2 huyện Điện Biên và Mường Nhé. Mặc dù có dân số ít
nhưng đời sống văn hóa của dân tộc Cống rất phong phú với nhiều phong tục tập
quán truyền thống tốt đẹp vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay. Một trong những
phong tục đặc trưng đó là lễ cưới hỏi truyền thống.
Đối với dân tộc Cống, trai, gái từ 14-15
tuổi trở lên đã được coi là trưởng thành và có thể bắt đầu quá trình tìm hiểu để
xây dựng gia đình. Trước đây họ không có cơ hội để tìm bạn đời là người khác tộc
và cũng không ai vượt qua được trở ngại về mặt tâm lý để kết hôn với những
thành viên thuộc dân tộc khác đang sinh sống cạnh kề như Thái, H’Mông, Si La…
Do vậy người Cống không tránh khỏi vấn đề hôn nhân cận huyết, bởi lẽ dân tộc Cống
có số dân khá ít, lại sinh sống tập trung nên giữa các gia đình người Cống hầu
như đều có mối quan hệ chằng chéo với nhau. Mùa cưới của người Cống cũng giống
như nhiều tộc người khác thường được tổ chức vào tháng 11, 12 âm lịch là thời
điểm nông nhàn đồng thời cũng là thời điểm sửa sang nhà cửa để đón năm mới và dựng
vợ gả chồng cho con cái.
Thiếu nữ chăm chỉ trong mùa đón chờ mùa cưới đến
Đối với các chàng trai người Cống đến tuổi
trưởng thành và muốn lập tổ ấm của riêng mình, chàng trai sẽ tìm hiểu và lựa chọn
người thiếu nữ khác họ mà mình thầm yêu trộm nhớ. Khi đã tìm được người ưng ý,
buổi tối chàng trai sẽ đến chọc sàn và rủ cô gái đó ra ngoài để trò chuyện tâm
sự. Qua trò chuyện, nếu có sự đồng cảm và yêu nhau (pông lang cái) nhưng chưa
công khai thì đôi trai gái vẫn chỉ được tâm sự với nhau ở dưới nhà sàn hoặc ở
ngoài sàn. Khi đã bén duyên cô gái (lêm mạ) phải thưa chuyện với bố (a pa), mẹ
(a má). Sau đó người con trai (lêm phạ) đến nhà người yêu mình thì lên tiếng từ
cầu thang. Không ưng, họ sẽ không ra mở cửa và chàng trai sẽ hiểu rằng gia đình
không bằng lòng với tình yêu của hai người. Còn ngược lại, nếu đồng ý, bố mẹ cô
gái sẽ mở cửa cho vào nhà. Sau khi nhận được tín hiệu chấp thuận, chàng trai mới
được vào nhà trò chuyện cùng gia đình cô gái.
Hoa Ban nở trắng một vùng, báo hiệu mùa xuân, mùa
cưới Điện Biên
Nếu thuận thì một thời gian sau sẽ làm lễ
đặt rể (mì tạp xái). Đây là lễ để chàng trai đi ở rể nhà người yêu. Lễ này thường
được tổ chức vào tháng 1 âm lịch. Khi tổ chức lễ đặt rể, bên nhà trai gồm: bố,
mẹ, anh em họ hàng (cũng có khi cả bản) đến nhà gái. Trong lễ này nhất thiết bố,
mẹ chàng trai phải cùng đi, nếu một trong hai người đã mất thì phải mượn vợ chồng
bác hoặc vợ chồng chú hoặc cô ruột (những
người ngang hàng với cha mẹ chàng trai) đi thay và phải đi cả đôi, không
được đi lẻ bởi đồng bào Cống quan niệm rằng đi lẻ là không hạnh phúc, không may
mắn.
Trong thành phần nhà trai đi lễ đặt rể hay
bất cứ lễ nào liên quan đến hôn nhân của dân tộc Cống đều có ông mối (po xứ) hoặc
bà mối (me lam) đi cùng. Điều kiện chọn người làm ông mối, bà mối phải là người
khỏe mạnh, hiền lành, tốt bụng, con đàn cháu đống càng tốt, đặc biệt phải là những
người không chết vợ hay không chết chồng. Trong lễ đặt tên này nhà trai cũng
thường chọn những người hát hay, hát giỏi đi theo để khi đến nhà gái có thể phải
hát đối đáp.
Đôi trai, gái người Cống bên mâm cơm ngày sang nhà
gái
* LỄ
ĐI Ở RỄ.
Nhà trai phải mang tư trang sinh hoạt và
lao động cho chàng trai sang bên nhà gái. Thông thường công việc mang tư trang
này dành cho các cô gái như: chị gái, em gái hay chị em họ... Riêng lễ vật để
trong một cái túi do mẹ chú rể (hoặc người ngang hàng) mang sang nhà gái gồm: một
cuộn dây gai (ý niệm thắt chặt đôi nam nữ và đôi bên gia đình), một gói muối
(biểu hiện cho sự mặn mà), một ít thuốc lào hoặc thuốc lá.
Khi đến nhà gái, nhà trai không lên ngay
mà thường lên tiếng dưới chân cầu thang bằng những câu hát chào, hỏi nhà gái.
Nhà gái cũng có những người hát giỏi hát đối với nhà trai (thường là đồng ý cho
lên nhà vì việc này đã có những thông tin trước với nhau để hai bên cùng chuẩn
bị). Người làm mối sẽ thưa chuyện với nhà gái hỏi xin thời gian được ở rể (khơi
tặp). Điều đặc biệt trong màn hỏi thời gian ở rể là người Cống không hỏi thời
gian bằng năm mà hỏi bằng ngày. Bên nhà gái trả lời hai ngày, ba ngày hay bảy
ngày tương ứng với thời gian thực tế là hai năm, ba năm hay bảy năm. Trước đây
thời gian ở rể của dân tộc Cống rất dài, có khi 12 năm nhưng ngày nay thường là
hai đến ba năm.
Khi đã có người đến ở rể nhà mình, cô gái
bắt đầu búi tóc ngược lên đỉnh đầu, đó là dấu hiệu của người con gái Cống đã có
chồng. Thời gian ở rể, họ có quyền sinh con đẻ cái, khi hết thời gian ở rể mới
được làm lễ cưới để đưa cô dâu gái về nhà chồng. Thời gian ở rể là thời gian thử
thách chàng rể phải cố gắng thể hiện mình trên phương diện đối nhân xử thế,
trong lao động sản xuất để đến khi cưới cha mẹ chia của cho.
Trước khi tổ chức cưới, người Cống còn làm
lễ đặt hỏi (ăng mì thám ế). Đây là lễ xin chọn một ngày tốt để cưới cho đôi vợ
chồng đã hết thời gian ở rể. Việc chọn ngày để làm lễ đặt hỏi cũng thường vào
những ngày tốt và những ngày tháng giáp tết (do việc đi ở rể cũng vào những
ngày tháng giáp tết và ở rể thường tròn năm)
Những món đồ tự tay người Cống làm cho con gái trước
lễ cưới
LỄ
CƯỚI (* ĂN MÌ TỒ Ế)
Để chuẩn bị cho lễ cưới nhà trai, nhà gái
đều phải chuẩn bị lợn, gà, rượu, cá, gạo và các thực phẩm khác để làm cỗ ăn uống
tại nhà. Lễ vật nhà trai mang sang nhà gái là một con lợn, 9 đôi cá (phải là cá
có vảy), một chum rượu cần (có hai cần hút), rượu trắng và một con gà, bạc trắng.
Những lễ vật trên được để vào mâm cỗ đem sang nhà gái này phải là anh rể hoặc
em rể mang đi. Người đeo chum rượu thường là chị hoặc em và đoàn nhà trai theo
sau.
Phần nhà trai mang những lễ vật sang (theo
thỏa thuận từ trước) đặt vào nơi thờ để làm lễ, cúng thờ tổ tiên. Lúc này cũng
là lúc nhà gái thách thức chàng rể bằng công việc giết gà. Chàng rể phải thực
hiện việc giết mổ gà từ khâu đun nước, cắt tiết đến vặt lông mà không được ai hỗ
trợ. Mổ xong, chú rể phải đem gà đi luộc, sau đó chặt đầu và chân để xem, còn lại
chặt nhỏ cho mỗi mâm một ít. Trong lúc chàng trai mổ gà, hai bên gia đình trai
gái tổ chức hát đối đáp (nế lế hê). Đến bữa ăn họ hàng hai bên chúc tụng nhau
có thể bằng lời hay bằng hát. Nhà trai thường có hai cô (chị hoặc em gái chú rể)
tay bưng khay rượu, thịt và đi chúc rượu từng người.
Mọi người vui tươi trong lễ cưới hỏi
Đến giờ đón dâu, cô dâu, chú rể lạy 3 lạy
hai họ và chúc bố mẹ hai bên mỗi người một chén rượu. Họ nhà trai mang tư trang
của cô dâu đi trước và chọn một số thanh niên nam nữ xinh đẹp, khỏe mạnh làm lý
giằng co đưa cô dâu về. Nhà gái cũng bố trí một số nam nữ thanh niên khỏe mạnh,
xinh đẹp giữ cô dâu lại trong sự lôi kéo của nhà trai để tỏ sự lưu luyến, nhớ
thương... Ngoài ra đoàn nhà gái còn té nước (nước ngâm tro) vào những người
đang giằng kéo con gái của phía nhà trai chuẩn bị ra về. Nước té càng nhiều,
càng nhiều người ướt đám cưới càng vui, vì đồng bào Cống quan niệm đó là điều
may mắn, nhiều lộc cho đôi vợ chồng trẻ. Việc đón dâu phải diễn ra vào lúc còn
mặt trời và vào những giờ hơn. Khi về đến nhà trai, bố mẹ chồng và chồng dẫn cô
dâu vào nhà, cô dâu, chú rể quỳ xuống trước mặt là chum rượu cần có hai cần và
một bên là bố mẹ. Cô dâu, chú rể sẽ lạy ba lạy về phía bàn thờ, sau đó vắt chéo
cần rồi cùng nhau uống rượu trước sự chứng kiến của bố mẹ và anh em họ hàng. Lễ
cưới đến đây là kết thúc.
Có thể nói, lễ cưới hỏi truyền thống của
dân tộc Cống mang đầy những nghi thức tốt đẹp thể hiện sự quan tâm của cộng đồng
đến hạnh phúc nam nữ. Sau khi kết thúc các nghi lễ cưới hỏi, đôi vợ chồng trẻ sẽ
bắt đầu một cuộc sống mới. Từ nay trở đi đôi vợ chồng trẻ sẽ tự lo làm ăn và
vun đắp cho hạnh phúc của mình.
Hoàng Thị Lê (sưu
tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét