Ông mai trao ống thuốc bột cho cô dâu và chú rể. Ảnh: Tấn Vịnh
Dân tộc Xơ Đăng là tộc người bản địa sinh
sống chủ yếu ở tỉnh Kon Tum, một bộ phận ở tỉnh Đak Lak, tỉnh Quảng Nam với nhiều
nhóm địa phương khác nhau như: Hà Lăng, Tơ Đrá, Mnâm, Xơ Teng, Ca Dong... Người
Xơ Đăng bảo lưu nhiều di sản văn hóa độc đáo thể hiện bản sắc Tây Nguyên như kiến
trúc nhà rông, trang phục, lễ hội truyền thống, âm nhạc cồng chiêng.
Một số lễ
hội của đồng bào như: lễ cúng máng nước, lễ mừng cơm mới, lễ cưới... đã được bảo
tồn và phát huy. Đặc biệt, lễ cưới của đồng bào thể hiện nhiều nghi lễ, tập tục
có nhiều nét riêng độc đáo, thấm đẫm chất nhân văn.
Chú rể mang lễ vật dẫn cưới tặng cô dâu. Ảnh: Tấn Vịnh
Người con trai, con gái Xơ Đăng khi trưởng
thành bắt đầu tìm cho mình một người ưng ý để làm vợ, làm chồng. Sau đó báo với
cha mẹ của mình để tìm người mai mối. Người mai mối là người có uy tín trong
làng, am hiểu phong tục, có hôn nhân hạnh phúc, được dân làng kính trọng. Sau
khi mai mối thành công hai bên gia đình tổ chức lễ ăn hỏi. Lễ ăn hỏi được tổ chức
tại nhà gái, đoàn nhà trai gồm ông mối, cha mẹ chú rể, anh em chú bác, lễ vật
nhà trai mang theo gồm: trầu cau, thuốc bột, thịt khô, cá, một con gà trống, một
con gà mái. Nhà gái chuẩn bị một con gà sống, chủ lễ cắt máu con gà cúng trình
tổ tiên và sau đó cô dâu, chú rể trao trầu cau cho nhau, thề nguyền suốt đời
không bỏ nhau. Sau buổi lễ cô gái theo về nhà chàng trai 1 đến 2 hôm, cùng đi
làm nương rẫy với nhau, sau đó chàng trai đưa cô gái về lại nhà mình.
Thời gian sau, khi đủ điều kiện về vật chất,
ông mai sẽ bàn với gia đình hai bên để chuẩn bị chọn ngày cưới. Lễ vật nhà trai
gồm có 2 vòng đồng đeo tay, 2 ống đựng thuốc bột, 2 vòng đeo cổ, chiêng, ché, vải
dệt,… Ngoài ra còn có trầu cau, thuốc bột, thịt khô, cá, một con gà sống, một
con heo. Nhà gái chuẩn bị 2 vòng cườm đeo tay, rượu cần, củi, trầu cau và các
món ẩm thực khác để chiêu đãi họ hàng.
Sau khi được nhà gái mời vào nhà, nhà trai
trình lễ vật để chủ lễ cúng thần linh và bắt đầu nghi lễ trao lễ vật cho cô
dâu. Đầu tiên là ông mai trao trầu cau (9 miếng), sau đó là vòng đeo tay, cườm,
vải dệt thổ cẩm, ống đựng thuốc bột.
Tiếp theo nhà gái cắt tiết con gà do nhà
trai mang đến hòa với rượu, luộc gà sau đó hai vợ chồng cùng ăn thịt gà và uống
rượu tiết gà. Trong thời gian luộc gà chủ lễ sẽ trao hai nắm cơm (bằng cách
trao chéo tay), vợ chồng bôi cơm lên đầu nhau thể hiện hồn của hai người đã nhập
làm một. Chủ lễ còn bôi máu gà lên trán để xua đuổi hồn ma ra khỏi thể xác của
nhau.
Sau phần nghi lễ cô dâu, chú rể và họ hàng
ăn uống, ca hát, nhảy múa, đánh trống chiêng cho đến khi say thì thôi. Xong lễ
cưới tại nhà gái, cô dâu theo chồng về nhà trai, mang theo một bó củi tượng
trưng cho việc chuyển mọi sinh hoạt của mình qua bên nhà chồng. Đến nhà trai cô
dâu đứng ở bên ngoài đợi khi trời tối, khi nhà trai mời đầy đủ họ hàng đến để
chứng kiến và ra mắt cô dâu, lúc ấy cô dâu mới được vào nhà và bắt đầu tổ chức
ăn mừng.
Khi họ hàng ai về nhà nấy, nhà trai cũng
chuẩn bị một con gà trống tơ, cắt tiết hòa với rượu, luộc gà. Sau đó giao cho
hai vợ chồng trẻ vào buồng tối cùng uống tiết và ăn thịt gà, đó là nghĩa cử thể
hiện sự hòa hợp, hạnh phúc. Uống rượu, ăn thịt trong đêm tân hôn với ý nghĩa bồi
bổ sức khỏe cho đôi vợ chồng trẻ để chuẩn bị cho những thành viên mới ra đời khỏe
mạnh.
Ngày
hôm sau ngày cưới, cô dâu chú rể
không được đi sản xuất, không ra máng nước của làng, cô dâu ở nhà chồng lo việc
bếp núc, đem bó củi của mình mang theo ra đốt. Những ngày tiếp lần lượt vợ chồng cùng nhau ra suối xúc cá với
sự chứng kiến của họ hàng. Nếu xúc trúng con cua đá thì cho rằng vợ chồng sau
này sẽ hay cãi vã, nếu là các loại cá thì tương lai vợ chồng sẽ hạnh phúc bền
lâu.
Trong hôn nhân, người Xơ Đăng có tục thách
cưới của nhà gái đối với nhà trai. Lễ vật thách cưới không thể thiếu đó là
chiêng, ché bởi nó vừa mang giá trị vật chất vừa mang giá trị tinh thần.
Chiêng, ché được coi là của hồi môn của cha mẹ cho con khi lập gia đình với tư
cách như một vật thiêng để giúp đỡ đôi vợ chồng trẻ sẽ có con cháu đầy nhà,
thóc gạo đầy kho; đồng thời cũng khẳng định uy tín của gia đình, dòng tộc nhà
trai. Việc nhà trai không có chiêng ché coi như được đặt ngang hàng với việc
không có nhà cửa, thiếu thốn về tài sản, vật chất.
Quang Hiệp
(sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét