Trung tâm xã Ngọk Linh, huyện Đăk Glei
Cộng đồng Xơ Đăng là một trong những dân tộc
thiểu số cư trú lâu đời trên địa bàn tỉnh Kon Tum. Với 113.898 người chiếm
24,37% tổng dân số toàn tỉnh (Niên giám thống kê 2012), gồm 5 nhóm địa phương:
Xơ Teng, Tơ Đrá, Mơ Nâm, Ca Dong và Hà Lăng. Họ cư trú tập trung chủ yếu ở các
huyện Đắk Tô, Tu Mơ Rông, huyện Đăk Hà, Kon Plong và một số cư trú ở huyện Kon
Rẫy, Sa Thầy, Ngọc Hồi và huyện Đăk Glei.
Ở xã Ngọk Linh, huyện Đăk glei, người Xơ
Đăng chủ yếu cư trú trên các đỉnh đồi quanh thung lũng Ngọk Linh. Toàn xã có 17
thôn, làng (Thôn Đăk Dã, Thôn Đăk Dít, Thôn Đăk Ia, Thôn Đăk Nai, Thôn Kon Tua,
Thôn Kon Tuông, Thôn Kung Rang, Thôn Lê Ngọc, Thôn Lê Toan, Thôn Lê Vân, Thôn
Long Năng, Thôn Tân Rát, Thôn Tân Út, Thôn Tu Chiêu, Thôn Tu Dốp, Thôn Tu
Kú,Thôn Tu Rang), duy nhất chỉ có làng Kung Rang cư trú tại vũng trũng – Trung
tâm xã Ngọc Linh.
Do
sinh sống ở những khu đất bằng trên đỉnh đồi, nên kinh tế nương rẫy của người
Xơ Đăng nơi đây chủ yếu là cây lúa đồi. Gọi là lúa đồi là vì lúa được trồng ở
những thửa ruộng bậc thang trên các sườn đồi. Vì vậy, lương thực chính trong bữa
ăn hàng ngày là lúa, gồm lúa nếp và lúa tẻ. Bên cạnh đó, họ còn săn bắt, hái lượm
để bổ sung nguồn thức ăn cho cuộc sống thường ngày. Do sống chủ yếu dựa vào nguồn
lương thực chính là lúa, nên đối với người Xơ Đăng trên địa bàn tỉnh Kon Tum
nói chung và người Xơ Đăng xã Ngọk Linh, huyện Đăk Glei nói riêng thì Kho lúa
(Xu pâu) là một trong những “cộng cụ” không thể thiếu được trong mỗi gia đình
và cộng đồng làng. Bởi đó là nơi cất giữ và cung cấp nguồn thức ăn chính nuôi sống
cả gia đình họ trong suốt một năm, thậm chí cả mấy năm (nếu gặp những năm mất
mùa).
Không chỉ người Xơ Đăng, mà hầu hết các
dân tộc thiểu số cư trú lâu đời trên địa bàn tỉnh Kon Tum đều làm kho lúa. Tùy
vào từng dân tộc, từng địa hình mà làm nhà kho lớn hay nhỏ, cao hay thấp. Các
nhà kho thường có sàn cao từ 0,8m – 1,5m; rộng từ 1,5- 2m; dài khoảng 2,5m- 3m,
cao khoảng 3m (từ mặt đất đến nóc).
Kho thường được dựng trên 6 hoặc 8 cột chịu
lực. Nguyên liệu chính là gỗ, mây, tre, nứa, tranh... khai thác từ trên rừng.
Sàn được lót bởi nhiều lớp tre đan, vách vây kín xung quanh bằng những tấm đan
lớn. Nhà kho thường chỉ có một cửa nhỏ vừa đủ thân người được cài bằng cửa sập
kín. Khi muốn đưa thóc vào hay lấy ra, đồng bào dùng một cái thang nhỏ để leo
lên. Sau khi làm xong việc, họ gỡ thang ra và gác lên giàn bên cạnh.
Để tránh thiệt hại do hỏa hoạn, bảo đảm
nguồn lương thực đến mùa giáp hạt và giống cho mùa sau, các nhà kho của đồng
bào bao giờ cũng được dựng lên cách xa làng, ngay sát bìa rừng.
Mặc dù ở vị trí kề cận với rừng nhưng hầu
hết các nhà kho không bị thú rừng xâm hại, đặc biệt là rất lợi hại trong việc đề
phòng chuột bọ. Đồng bào thường gắn vào cột kho lúa một miếng gỗ tròn, đường
kính 40 - 50cm, nhìn giống như cái chảo úp, nếu chuột trèo lên sẽ bị rơi xuống
đất.
Cũng như các dân tộc thiểu số khác trên địa
bàn tỉnh Kon Tum, người Xơ Đăng ở xã Ngọk Linh, huyện Đăk Glei cũng làm nhà kho
để đựng lúa. Phần lớn người Xơ Đăng nơi đây cư trú trên những vị trí rất cao.
Trong khi đó, lúa được canh tác ở khu vực triền đồi, nên kho lúa thường được
làm ở gần với rẫy lúa hơn để tiện cho việc vận chuyển khi thu hoạch
Kho lúa làng Kon Tuông, xã Ngọk Linh, huyện Đăk
Glei
Kho lúa thường được làm vào khoảng thời
gian từ tháng 6 đến tháng 7. Để làm hoàn chỉnh một kho lúa mất khoảng một tuần.
Việc đầu tiên là phải chọn đất. Già làng là người đại diện cho dân làng đi chọn
một đám đất, khi đã tìm được đám đất ưng ý, ông về báo cho cả làng biết, sau đó
các gia đình trong làng tự chọn một vị trí thích hợp để làm kho lúa cho gia
đình mình trên mảnh đất già làng đã chọn. Sau đó, họ lấy một loại cây rừng mà
người Xơ Đăng nơi đây gọi là cây C’lanh (Loong C’lanh) cắm vào vị trí đất đã chọn
rồi bẻ gập về một hướng (thường cắm vào buổi chiều). Buổi tối hôm đó, trong giấc
ngủ, nếu mơ thấy điều tốt thì các gia đình sẽ chọn ngày làm kho lúa, ngược lại
thì phải chọn vị trí khác để làm.
Người Xơ Đăng nơi đây thường lấy gỗ dổi
(Loong Hang) để làm khung kho lúa. Kho lúa ở đây thường có kích thước khoảng
2,5m x 1,2m. Xung quanh được thưng bằng nứa (Ri chiêr). Nứa sau khi chặt về được
chẻ nhỏ thành từng nan hoặc chẻ đôi và đập dập sau đó đan khít lại với nhau
thành từng tấm. Mái kho lúa thường được lợp bằng tranh (la cuốc). Tranh thường
được cắt vào tháng 12 dương lịch, vì thời gian này tranh đã già và khô nên cắt
về lợp luôn không phải phơi.
Khung kho lúa thường được để trơn hoặc được
khắc các họa tiết hoa văn. Các họa tiết hoa văn ở đây chủ yếu là: hoa văn chữ W (Gú), hình sao cách điệu (Ri
lét) và các họa tiết hoa văn(Chiêr) khác. Màu sắc thể hiện trên hoa văn chủ yếu
là màu đen. Màu đen được người Xơ Đăng lấy từ một loại đá đen sẵn có trong tự
nhiên và lá cây lách (chang) giã nát, mịn và chộn lẫn với nhau, sau đó cho một
ít nước vào và bôi lên hoa văn. Các họa tiết hoa văn ở đây không chỉ để trang
trí cho kho lúa, mà nó còn có tác dụng làm cho các loại thú thấy sợ không dám đến
gần.
Trang trí các họa tiết hoa văn trên Kho lúa
Kho lúa được làm cách mặt đất từ 60 đến
80cm. Có một số kho lúa người ta làm hình một số con vật như chim, thú,…treo ở
dưới gầm để cho chuột và các loài động vật,…không dám đến gần kho lúa. Vì người
Xơ Đăng nơi đây kiêng cữ việc các con vật vào phóng uế dưới gầm kho lúa, đặc biệt
là mèo rừng. Anh A On, sinh năm 1977, làng Kon Tuông cho biết: Bà con ở đây rất
sợ mèo rừng đến gần kho lúa, nếu nhà nào để mèo rừng vào phóng uế dưới gầm kho
lúa thì phải bỏ cả kho lúa đó đi (dù vừa ăn lúa mới xong hay lúa đang còn đầy
kho) và phải làm kho mới ở chỗ khác. Còn các con vật khác như chó hoặc heo vào
phóng uế thì không phải bỏ kho lúa đi, mà chỉ cần làm một lễ nhỏ gồm heo và gà
cúng xin Yàng, thần lúa giúp cho gia đình được bình an, làm đủ ăn trong năm là
được.
Các con vật bằng gỗ (chim, thú,…) treo dưới gầm
Kho lúa
Thông
thường, sau khi làm xong thì mới gặt lúa về bỏ vào kho và ăn dần. Với người Xơ
Đăng nơi đây thì phải ăn hết lúa trong kho (lúa cũ) thì mới ăn lúa mới. Vì khi
ăn lúa mới phải làm lễ. Trước đây, lễ
ăn lúa mới thường được tổ chức từ 2 đến 3 ngày và được chia làm hai gia đoạn.
Gia đoạn thứ nhất là ăn lúa mới tại mỗi gia đình và giai đoạn thứ hai là mừng
lúa mới ở cộng động làng. Tùy theo mỗi làng, tuỳ theo quá trình thu hoạch lúa,
mỗi làng sẽ chọn ra một ngày (thường là ngày thu hoạch tốt nhất của làng) để tiến
hành tổ chức lễ hội.
Kho lúa không chỉ là nơi cất giữ, bảo quản
hoa màu, lương thực mà nó còn là một công trình kiến trúc độc đáo của người Xơ
Đăng nói riêng và các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Kon Tum nói chung. Hiện
nay, hầu hết ở các thôn, làng vẫn còn bảo tồn loại hình kiến trúc nhà kho này.
Kho lúa của làng đã tồn tại lâu đời, nơi đảm bảo cuộc sống ấm no của đồng bào
trong điều kiện nền kinh tế tự túc tự cấp. Do đó, việc duy trì và bảo tồn kho
lúa của đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Kon Tum hiện nay không
chỉ góp phần bảo vệ nguồn lương thực chính cho đồng bào, nhất là trong điều kiện
nền kinh tế hiện nay hoặc những khi bị thiên tai, hỏa hoạn mà còn góp phần bảo
tồn không gian kiến trúc kho lúa cùng với những giá trị văn hóa tinh thần gắn với
kho lúa vốn đã tồn tại và được đồng bào duy trì từ xưa đến nay./.
Hoàng Thị Vinh (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét