Người Thái, một trong 54 sắc tộc ở Việt Nam, sống đông đúc ở
miền Tây Bắc xứ Việt Nam. Họ đến định cư tại Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 và hiện
nay dân tộc Thái đã có gần 400.000 người. Ngôn ngữ Thái hiện nay đã được xếp
vào nhóm tiếng Thái hay còn gọi là nhóm Tày Thái. Những dân tộc cùng hệ ngôn ngữ
Thái ở miền Tây Bắc còn có nhóm : Lào, Lự, Tày, Nùng, Giấy, Pu Nà .
Trước khi nghiên cứu về nhạc và các điệu múa của người
Thái, thiết tưởng chúng ta nên có một khái niệm sơ về người Thái nói chung . Mặc
dù cũng có những đặc trưng cơ bản của người Thái ở miền Tây Bắc, ta nhận thấy
có hai ngành Thái: Thái Trắng vàThái Đen . Đó là một đặc điểm cần lưu ý đến khi
nghiên cứu về họ .
Thái Trắng có thể chia làm hai nhóm địa phương . Nhóm thứ
nhất cư trú ở phía Bắc trong các huyện Mường Lay, Mường Tê, Phong Thổ, một phần
ở Tuần Giao, Quỳnh Nhai, Sinh Hồ, Tủa Chùa, và xã Ngọc Chiến thuộc Mường La .
Nhóm này có những đặc trưng văn hóa của một nhóm địa phương thống nhất như cùng
một vùng thổ ngữ, một loại hình sinh hoạt phong tục tập quán, văn học, nghệ thuật
dân gian, tôn giáo, vv... Nhóm thứ hai nằm ở phía Nam trong các huyện Mộc Châu,
Phú Yên và một phần Văn chấn . Nhóm này do ảnh hưởng của nhiều luồng văn hóa
khác nhau, nên chỉ có thể thống nhất trên những nét chung chung như : cùng
chung một chuyện kể về nguồn gốc vàsự Thiên di, cùng một phong tục tập quán, một
loại hình văn học, nghệ thuật dân gian .
Thái Đen có những đặc trưng của một nhóm địa phương tương đối
đồng nhứt . Đồng bào Thái Đen hiện nay sống ở các huyện Văn Chấn, than Uyên ,
Mường La, Thuần Châu, Mai Sơn, Sông Mã, Tuần Giao, Điện Biên, Phong Thổ, Sinh Hồ,
Quỳnh Nhai. Một nhóm Thái Đen có hơi khác một số điểm về tập quán và thổ ngữ hiện
nay cư trú ở huyện Yên Châu , nên thường được gọi là Thái Yên Châu .
Sự phân chia thành hai ngành Thái Trắng vàThái Đen ở miền
Tây Bắc hiện nay là kết quả của một quá trình trên những diễn biến lịch sử lâu
dài và khá phức tạp. Có người cho rằng Thái Đen vì họ ăn mặc đen, quấn khăn đen
. Ngược lại Thái Trắng được gọi như vậy là vì họ ăn mặc trắng, quấn khăn trắng
. Tại sao lại có chuyện ăn mặc khác nhau như vậy ? Nên biết rằng người
Thái Trắng có nơi khi thờ cúng tổ tiên lại ăn mặc đen ? Có một giả thuyết cho rằng
là người Thái Trắng có nước da trắng hơn người Thái Đen ! !
Nơi sinh sống của người Thái được gọi là "bản" và "mường" .
Nhiều bản hợp lại thành một "mường" nhỏ . Nhiều "mường" nhỏ
hợp lại thành "châu mường". Ngay từ đầu các "bản" ,
"mường" đã phân chia rải rác tương đối đông đúc trên những vùng cư
trú của ba nhóm địa phương vùng Tây Bắc .
Về mặt tôn giáo, người Thái cho rằng trên trái đất này có
hai thế giới : thế giới của sự sống, và thế giới hư vô . Thế giới sự sống bao gồm
sự tồn tại của con người, muôn vật vàcác hiện tượng trong thể trạng thực mà người
ta có thể nhìn thấy được . Thế giới hư vô bao gồm một cõi sống mà họ gọi là
"phi". Thí dụ như người ta muốn sống và sống được là nhờ "phi
khuôn" của người va vật tức la "phi then" có nghĩa là chủ
cõi trời .
Người Thái cũng như các dân tộc khác vì đã sống qua các thời
kỳ lịch sử nên họ có những tín ngưỡng linh hồn, tín ngưỡng thờ thần ma .
Sau khi nhìn qua một vài khía cạnh sắc tộc và tôn giáo của
sắc tộc Thái, chúng ta thử tìm hiểu âm nhạc dân gian và điệu múa cổ truyền của
họ .
ÂM NHẠC DÂN GIAN
Âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật được người Thái ưa thích .
Trong cuộc sống hàng ngày, "khắp" (hát) đối với họ không thể thiếu được
. Người ta nghe hát hoặc hát cho mọi người nghe một cách rất say mê. Trước
đây đã từng có những cuộc hát kéo dài tới hai , ba ngày đêm . Qua loại hát,
không những người ta chỉ thưởng thức những thi vị của ý thơ mà còn gởi gắm tâm
tình vào những âm thanh trầm bổng của giọng hát hay nữa .
Ngoài loại hát, người Thái còn có những nhạc khí để diễn đạt
tư tưởng, tình cảm của mình hoàn toàn bằng âm thanh không cần có lời hát . Những
nhạc khí này đã đóng vai trò rất quan trọng để tạo nên âm nhạc dân gian của người
Thái .
Âm nhạc dân gian Thái có nhiều làn điệu khác nhau được cấu
trúc trên các âm giai ngũ cung mà người Kinh gọi là Hò xự xang, xê, cống, líu .
Người Thái chưa có phương pháp ký âm nên không có tên gọi các cung bậc của âm
giai .
Hát được người Thái gọi la ø"Khắp" . "Khắp"
có thể đồng nghĩa với hát, hò, ngâm. "Khắp" có rất nhiều làn điệu và
mỗi làn điệu dùng để thổ lộ tư tưởng và tình cảm khác nhau .
Một lối "Khắp" rất phổ biến , đó là những giọng
mà người Thái gọi la ø"quám khắp" (hát thơ). Đây làlời hát dùng cách
hát để làm hình thức để diễn đạt nội dung bài thơ . Như vậy , hễ có thơ là người
ta có thể hát ngay theo một lối hát cho hợp thể loại . Đó chính làcác điệu dân
ca biểu hiện bằng các lối hát thơ thích hợp với làn điệu của từng vùng cùng
làtruyện thơ, nhưng khi hát, làn điệu khác nhau hoàn toàn . Chẳng hạn như không
bao giờ người ta hát tập thơ sử Tây pú xớc như tập anh hùng ca Chương han . Hoặc
người ta cũng không hát Phanh Mường (kể chuyện dựng mường) như hát truyện thơ
Chàng Lù, Nàng Ủa . Lại cũng có thể có hai lối hát cho cùng một tác phẩm thơ .
Truyện thơ Sống Chụ Xon Xao, khi nằm để ngâm nga thìphải theo làn điệu "khắp
xư", nhưng khi trong các bữa tiệc cưới thì phải theo làn điệu "khắp
báo xao"... Như vậy một bài thơ, hoặc một truyện thơ bao giờcũng là một
bài hát . Hoặc cũng có thể nói được rằng cứ hát là đã có nội dung thơ . Do đó
người Thái gọi baì thơ sáng tác là "khắp bắ" nghĩa là tự Nghĩ ra thơ
để hát . Ngày xưa người làm thơ thường được gọi là "mo khắp bắc" (mo
hát thơ), "chang khắp bắc" (người khéo hát thơ), "sây khắp bắc"
(thầy hát thơ) , hoặc "nài khắp bắc "(có nghĩa là người giỏi về hát
thành thơ ) . Như vậy làn điệu của hát rõ ràng đã diễn tả được ý thơ theo quan
niệm thẩm mỹ âm thanh làn điệu thì đặc tánh âm nhạc dân gian Thái đã hình thành
. Lúc này người ta không nhất thiết phải hát bằng lời thơ mà chỉ cần xướng âm ,
thổi sáo, hoặc dùng các nhạc khí, vv... biểu hiện làn điệu của hát thơ, người
ta cũng có thể nhận ra một cách chắc chắn đó là âm nhạc Thái .
Hát thơ cũng có rất nhiều làn điệu .
Hát thơ theo làn điệu "khắp xư" là một lối đọc
thơ nhưng theo một quy cách hát, thường phổ biến trong cách đọc phần lớn các
truyện thơ . "Khắp xư" có nghĩa là hát thơ , bởi vậy có lẽ phải có
các thể thơ, giọng hát này mới ra đời . Làn điệu của "Khắp xư" biểu
hiện sự sắp xếp nhịp điệu cung cách của thơ Thái . Đó là lời thơ tự do . Các
câu thơ tùy , có lúc sẵn tiếng nhưng phần lớn thường lẻ tiếng như 3, 5, 7, 9,
11,13, vv... Thơ không bó buộc phải theo một luật bằng trắc, nhưng rất chú trọng
các thanh trầm bổng cân đối nhịp nhàng . Không gieo vần thơ ở tiếng cuối màlấy tiếng
cuối câu trên gieo ở tiếng đầu, thì 2, 3, 4 (vần lưng) ở câu dưới. thể hát thơ
"khắp xư" mang tính chất ngâm nga .
Tuy nhiên, do cấu trúc của làn điệu đã biểu hiện được tính
chất của hát nên người Thái đã gọi thơ là "khắp", có nghĩa là hát, chứ
ít sử dụng từ "xư bắc" (thơ) một cách riêng rẻ . Nếu đem so sánh tiếng
Việt với tiếng Thái thì thấy như sau:
Tiếng Việt, thơ, ngâm thơ, ca dao, thi ca
Tiếng Thái "xư khắp bắc", "khắp xư",
"khắp", "khắp"
Người Việt có từ chỉ thơ và ca, còn người Thái chỉ có
"khắp"dùng cho cả thơ lẫn ca .
Nhờ nhịp điệu của loại thơ 5 chữ, "khắp xư" (hát
thơ) lại không thể hiện tính chất ngâm nga của thơ . Lúc đó "khắp xư"
trở nên bài xướng thơ có nhịp phách . Ngược lại có thể nói đây là lối đồng ca
thơ, dùng mở đầu cho một làn điệu múa .
Những bài đồng dao trẻ em Thái càng thể hiện tính nhịp
phách một cách rõ rệt hơn . Đó làbài hát thơ có nhịp 2/4 khiến cho trẻ em vừa đọc
vừa vỗ tay. Tiếng cuối câu thơ được nhấn hai lần vào nhịp mạnh làm cho bản
đồng dao mang tính chất ngây thơ . Như vậy rõ ràng lối "khắp
xư", một mặt còn nằm ở dạng chưa ổn định về nhịp phách, vì tính giai điệu
của âm nhạc còn tùy thuộc quá nhiều vào thơ . Mặt khác cũng đã xuất hiện khuynh
hướng ổn định về nhịp phách và hình thành cấu trúc giai điệu để tạo thành những
bài ca khúc dân gian hoàn hảo . Từ sự thể hiện tính làn điệu của "khắp
xư" mà những làn điệu ở các vùng khác xuất hiện .
Dân ca trữ tình gọi la ø"khắp báo xao" (hát trai
gái), "khắp chiêu" (hát reo), "khắp au hua, au hang" (hát
cùng kéo đầu , cùng vuốt đuôi) là một thể hát thơ . Làn điệu thường mở đầu bằng
chuỗi tượng thanh hò. Tiếp theo làlối hát ngâm nga từ 1 tới 2, 3 câu thơ và kết
bằng một chuỗi tượng thanh hò . Cứ như vậy, làn điệu được nhắc đi nhắc lại
theo thể đơn nhất để diễn tả nội dung bài thơ . Phải chăng đây là nguồn gốc tạo
ra cấu trúc ba thành phần của âm nhạc dân gian Thái : mở đầu, phần giữa, và phần
kết thúc ?
Ở một vài nơi, người Thái địa phương còn có lối hát được gọi
là "khắp phẳn" (hát xoán lại). Thường cứ hát trên làn điệu "khắp
xư" rồi lại chuyển sang hát dân ca trữ tình . Mục đích của "khắp phẳn"
là để gắn những câu tình tứ của người hát theo thơ dân ca với câu tinh tứ đã được
khẳng định ghi chép lại trong các truyện thơ Thái .
Lối hát "khắp phẳn" phải chăng cũng là cách tập hợp
một số làn điệu tập thể đồng ca . Một người cất tiếng hò, cả đám hò theo để hưởng
ứng . Sau đó, người hát chuyể n sang hát ngâm nga đổi câu thơ rồi hò, cả đám lại
hò hưởng ứng . Lối hát đó đã làm tiếng thơ thêm tươi sáng và vui hẳn lên .
Hát thơ trữ tình đã tiến tới sụ thống nhứt trong các làn điệu
dân ca của từng vùng Thái . Vùng Thái Trắng ở miền Bắc thường vừa hát vưà đệm
đàn tính . Giai điệu của hát và các đàn tính theo lối đệm khác nhau nhưng rất
ăn nhịp tạo một sự hòa hợp âm thanh làm tình cảm trở nên trong sáng . Vùng Mai
Sơn, Mường La, Thuận Châu còn có"lối hát đệm sáo gọi là "pí pặp"
với làn điệu biểu hiện tình cảm say đắm . Ở Mường La, người ta còn có giọng hát
gọi là "loang tông" (xuôi theo lòng cánh đồng) thường để diễn tả nỗi
ai oán trong sự phũ phàng của tình yêu . Người Yên Châu rất ưa dùng khèn bè để
đệm cho hát . Trong một làn điệu nghe tưởng như rất khúc chiết vì tiếng hát xen
với tiếng khèn bè rất nhộn nhịp chồng chất nhau . Tiếng hát của người Thái Mộc
Châu khi cần thiết cũng đệm bằng ống tiêu gọi la ø"pí khúi" hay còn gọi
là "pí thiu".
Tiếng hát xưa còn được nghe trong những làn điệu "Khắp
mo". Đây là giọng hát của những "mo chang" dùng để diễn đạt tứ
thơ trong tôn giáo , và đặc biệt phổ biến hơn, người ta sử dụng giọng "khắp
mo" để diễn ca các tập thơ lịch sử . Nói một cách khác, khi đọc các truyện
thơ lịch sử một cách đúng nhứt bao giờ cũng phải diễn tả bằng giọng hát
"mo". Ở đây giai điệu thường chỉ nằm tren các quãng 3 (do-mi) và
quãng 5 (do-sol) , với nhịp điệu rõ ràng biểu hiện vẻ trang nghiêm của chất thơ
lịch sử .
Bên cạnh hát "mo", dân ca Thái còn có lối hát
"chương han" (thơ kể chuyện về chàng Chương gan dạ) gọi là "khắp
Chương".
Ngoài "khắp mo", trong lối hát thơ phục vụ cho
tôn giáo Thái còn phải kể đê 'n các giọng hát gọi là "khắp một".
"Một" đàn ông hát đệm theo sáo nứa (co lưỡlam đồng) gọi là "pí
láo", còn gọi cách khác là "khắp một láo". "Một" đàn
bà không đệm theo nhạc cụ và gọi là "khắp một nhính" hoặc "khắp
một há ní" Đây là lối sử dụng âm nhạc để gây cho những tín đồ của thế
giới hư vô . Âm nhạc ở đây trở thành tiếng ru lòng người chập chờn như liều thuốc
mê . "Khắp một láo" (một đàn ông) không những chỉ có làn điệu mà đã
có những đoạn hát có nhịp phách hẳn hòi . Do đó cũng có thể coi những đoạn hát
đó là một loại ca khúc hoàn hảo của âm nhạc dành cho các "một" của
người Thái . Phải kể tới các bản ca khác xuất hiện trong các dân vũ Thái Trắng
được mang tính độc lập của nó với thơ . Khác với các bài hát thơ , những bài ca
này , cấu trúc nhạc thực rõ ràng, nhịp phách phân chia đàng hoàng . Có thể
kể ở đây những bài bản như "Táng Xạ", "Nhụm Hứa", "Inh
lả ơi", vv.....
Nhạc khí Thái có đàn "Tính Tẩu" một loại đàn dây
rất được ưa chuộng . Ngoài ra có nhiều loại "pí" (sáo) va ø"kén
(khèn bè). Thêm vào đó có nhạc cụ gõ như trống, chũm chọe, chiêng .
Về múa , người
Thái có rất nhiều điệu múa như múa tập thể "xé vòng", "xé lảng"
(múa mộc), "xé pén" (múa khiên). Một loạt điệu múa dính liền với đời
sống hàng ngày như múa khăn, múa nón, múa chai, múa hái rau . Múa "xé cắp"
(múa cằm bẫy) của Thái được người Việt chế biến thành múa sạp .
Một số điệu múa cải biên như "Nhụm Hứa" (đẩy thuyền)
biến đổi từ múa khăn, "Tạng Xá" từ điệu múa khăn vừa hát vừa múa theo
điệu nhạc đàn tính
Sự đóng góp của âm nhạc dân gian Thái rất lớn trong nhạc
dân tộc Việt Nam . Trong tương lai, với điều kiện nghiên cứu cho phép, chúng ta
sẽ có dịp khám phá biết bao truyền thống dân nhạc của 54 sắc tộc sống trên lãnh
thổ Việt Nam và sẽ mang lại cho chúng ta một niềm tự hào vềsự phong phú của dân
nhạc, đa văn hóa của nền nghệ thuật đa dạng tại Việt Nam .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét