Nét văn hóa đặc trưng của nhạc cụ dân tộc Thái

Cây Pí
Đến với bản người Thái trên vùng cao Tây Bắc, nơi nào có nhà sàn, có khăn piêu, áo cóm, áo chàm là ở đó có văn nghệ bản mường. Dù dưới ruộng hay trên nương, lúc nào tâm hồn thảnh thơi là câu hát lại cất lên ngân nga, trầm lắng. Hãy một lần ghé thăm nơi đây để được tận mắt ngắm nhìn nét độc đáo, ý nghĩa văn hóa cũng như tình yêu, khát vọng mà đồng bào dân tộc người Thái gửi gắm vào điệu khèn Bè, tiếng Pí Pặp, đàn môi, tính tẩu…, cất lên gần như đầy đủ hương sắc âm nhạc dân gian Thái.
Những nhạc cụ độc đáo của người Thái được làm ra từ trong lao động, để những âm thanh đó diễn tả lên cuộc sống mộc mạc, chân phương của người dân bản mường. Cùng nhạc cụ Tiến Mạnh đi tìm hiểu để thấy được nét đặc trưng văn hóa trong nhạc cụ dân tộc của người Thái.


Khèn Bè
Tiếng khèn bè từ lâu đã trở nên quen thuộc đối với mỗi người dân tộc Thái giữa núi rừng Tây Bắc. Giai điệu mượt mà của những âm thanh sóng đôi đặc trưng của khèn bè cất lên nghe da diết sâu lắng như lời tâm tình yêu đương đã chắp cánh cho biết bao đôi lứa. Những làn điệu hát khắp đặc trưng của người Thái cũng được ngân nga hơn trong âm vang của tiếng khèn bè. Và từ lâu tiếng khèn bè đã trở nên quen thuộc trong những dịp Lễ Tết, những dịp vui của đồng bào Thái nơi đây.
Trong bộ phận của khèn Bè có ống, lưỡi, chốm pì hay gọi là bệ khèn, sau đó xếp theo thứ tự và dùng những dây lạt thắt các bộ phận lại. Quan trọng nữa là sáp ong ruồi phải làm sao để hàn cho kín, nếu không thì thổi nó rât mệt, thậm chí nó không kêu nữa.

Trong chiếc khèn Bè, bộ phận quan trọng quyết định âm thanh là lưỡi khèn, Lưỡi khèn được làm bằng đồng hoặc bạc trắng, được đánh mỏng để gắn vào trong các ống khèn, độ tỉ mỉ trong chế tác lưỡi khèn và trình độ thẩm âm của nghệ nhân quyết định âm thanh của mỗi cây khèn.

Cây Pí


Pí của người Thái có nhiều loại. Mỗi loại có một âm thanh khác nhau:
-      Pí pặp đơn gồm 1 ống, có 6 lỗ và lưỡi gà bằng đồng, thường được các chàng trai thổi vào ban đêm thay cho đi chọc sàn với âm thanh vang lên trữ tình để cô gái cảm động rồi mở cửa cho vào nhà.
-      Pí pặp kép được ghép từ hai chiếc pí pặp đơn với nhau, được thổi vào buổi sáng sớm với giai điệu vui nhộn.
-      Pí thui có độ dài khoảng 1m, có 6 lỗ, không có lưỡi gà, được người Thái thổi với âm thanh du dương, đượm buồn để bày tỏ sự nuối tiếc cho mối tình đẹp của hai người yêu nhau say đắm nhưng không thành.
-      Pí tam lay được ghép lại từ 3 ống nứa, mỗi ống gồm 1 lỗ, được các chàng trai thổi gọi bạn gái vào lúc trăng sáng.
-      Pí loong tông gồm 2 lỗ, có lưỡi gà làm bằng tre, được  thổi vào những ngày mùa nhằm cổ vũ, động viên nhau hăng say lao động, sản xuất với giai điệu vui nhộn.
-      Pí cúng có 7 lỗ, lưỡi bằng đồng, có lỗ điều chỉnh để làm rè tiếng, được dùng để thổi liên tục từ đêm đến sáng cùng với tiếng cúng của thầy Mo đuổi tà ma khi trong nhà có người ốm đau.

Tiếng pí là tiếng lòng, là nỗi niềm, là tâm tình của người thổi. Chả thế mà các đôi trai gái Thái yêu nhau, cô gái có thể nhận ra đâu là tiếng pí của người yêu mình trong rất nhiều tiếng pí, và qua tiếng pí người nghe có thể cảm được tâm trạng của người thổi đang vui hay buồn. Người thổi được pí là người phải thật sự đam mê và hiểu dân ca vốn cổ dân tộc mình.

Đàn môi

Ở Việt Nam, đàn môi là một trong những nhạc cụ được đồng bào các dân tộc thiểu số ưa chuộng, đặc biệt là đồng bào dân tộc Thái.


Đàn môi thuộc loại nhạc khí tự thân vang, được làm bằng kim khí, đồng thau và tre với hình dáng nhỏ nhắn, chỉ khoảng 7 cm. Nhìn kiểu dáng bề ngoài, có người sẽ cho rằng chiếc đàn môi được sản xuất bằng máy móc công nghiệp. Kỳ thực, chiếc đàn được làm hoàn toàn do đôi tay của những thợ thủ công. Chỉ những thợ kéo tay mới có thể rèn được chiếc đàn môi dù nó chỉ nhỏ xíu.

Đàn môi không chỉ dùng để tiêu khiển mà còn được người ta sử dụng để giao duyên, thổ lộ tâm tình. Cái hay của lời tâm tình này là sự thầm kín, không cần thốt thành lời nhưng người ta vẫn hiểu được, bởi âm sắc đàn môi gần gũi với giọng nói con người và đó cũng là một trong những lý do khiến ta như bị “bỏ bùa” bởi thứ nhạc cụ này.

Tính tẩu

Tính tẩu (ha tinh tẩu) (còn gọi là đàn Tính hay đàn Tẩu) là nhạc cụ khảy dây được dùng phổ biến của dân tộc Thái. Trong tiếng Thái, tính có nghĩa là đàn, còn tẩu là bầu (quả bầu), dịch ra tiếng Việt, tính tẩu có nghĩa là đàn bầu. Để khỏi nhầm lẫn  loại đàn bầu của người miền xuôi, nhiều người gọi tính tẩu là đàn tính nhưng nếu dịch ra “đàn đàn” thì sai. Do đó chỉ cần hiểu đàn tính là cách gọi tắt của đàn tính tẩu. Tính tẩu có âm sắc êm dịu, thanh thoát. Khi phát ra âm cao nó gần giống với tiếng đàn tam.


Tính tẩu có những bộ phận chính là bầu vang, cần đàn và dây đàn. Tính tẩu thuộc bộ dây, âm vực có thể đạt tới 3 quãng tám. Tuy nhiên người diễn chỉ sử dụng những âm trong vòng 2 quãng tám và một vài âm hơn nữa.

Đối với dân tộc Thái tính tẩu là nhạc cụ chính, dùng để độc tấu, đệm hát và chơi giai điệu múa. Các chàng trai người Thái vừa đàn tính tẩu vừa múa bằng nhạc cụ này. Khi đệm hát, tính tẩu thường chơi giai điệu của lời ca. Trong nhạc múa tính tẩu có những bài bản riêng.

Người con gái Thái, lần đầu tiên được nghe tiếng đàn tính tẩu như tâm sự của chàng trai đến làm quen, tiếng đàn như sợi dây tình quyến rũ, họ yêu nhau. Nhiều cặp đã nên vợ chồng qua tiếng đàn tính tẩu.


Cuộc sống hiện đại đi kèm với những đổi thay nhưng với những nét độc đáo của mình, những âm vang say sưa với điệu khèn, tiếng Pí, đàn môi, tính tẩu, … như thế này có lẽ vẫn sẽ còn ngân nga gắn bó với những người Thái, với nơi vùng cao Mai Châu  như một phần không thể thiếu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét