Cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Với số dân hơn 80 vạn người- đứng
thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc và cư trú ở vùng núi cao phía Bắc và
phía Tây, người H'mông có nền văn hoá rất phong phú, giàu bản sắc và có truyền
thống từ lâu đời.
Dân tộc H'mông sinh sống ở Việt Nam có
khoảng 80 vạn người thuộc nhóm ngôn ngữ: Hmông- Dao. Người H'mông (từ Quí Châu-
Vân Nam- Quảng Tây- Trung Quốc) thiên di vào Việt Nam cách ngày nay khoảng 300
năm, bằng nhiều đợt, rải rác suốt thời gian dài cho tới cuối thế kỷ XIX. Người
H'mông vào Việt Nam là do nguyên nhân: trong lịch sử các
triều đại phong kiến Trung Hoa đã gây ra nhiều cuộc chiến tranh tàn bạo và đẫm
máu, đàn áp nhiều tộc người (trong đó có dân tộc H'mông), để giành quyền cai trị
đất nước, làm người H'mông phải thiên di đi khắp nơi.
Điểm đầu tiên, họ đặt chân đến là Mèo Vạc trên cao
nguyên Đồng Văn (Hà Giang), nơi địa đầu Tổ quốc Việt Nam. Vì thế, người H'mông sinh sống ở
Việt Nam đều coi cao nguyên Đồng Văn là quê
hương đất tổ của mình. Người H'mông phân chia thành 4 nhóm: H'mông Hoa (H'mông
Lềnh), H'mông Đen (H'mông Dú), H'mông Xanh (H'mông Chúa), H'mông Trắng (H'mông
Đu). Tuy có 4 nhóm H'mông khác nhau, nhưng về ngôn ngữ và văn hoá cơ bản giống
nhau, sự khác nhau giữa các nhóm chủ yếu là dựa trên trang phục phụ nữ.
Dân tộc H'mông phân bố khắp trên các tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên
Bái, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An và số
ít ở Phú Thọ. Sau ngày giải phóng miền Nam (1975), một bộ phận Người H'mông di
cư vào sinh sống ở các tỉnh Tây Nguyên. Người H'mông ở Việt Nam có mối quan hệ
chặt chẽ về nguồn gốc, ngôn ngữ, văn hoá với cộng đồng người Mẹo ở Lào, người
Mông ở Thái Lan, người Miêu ở Trung Quốc và Myanma.
Tuy cư trú ở độ cao từ 700m đến 1.500m, rải rác khắp nơi
trên miền núi phía Bắc Việt Nam và trên Tây Nguyên, nhưng tộc người H'mông vẫn
duy trì được bản sắc văn hoá độc đáo của mình trong cộng đồng quốc gia dân tộc
Việt Nam.
Người H'mông ăn một ngày hai lần, vào những ngày mùa ăn ba
lần; ăn bột ngô đồ là chính, ăn cơm là phụ. Thức ăn có rau đậu xào mỡ và canh.
Trong dịp lễ tết, hay nhà có khách thường được thiết đãi bằng thịt gà, rượu. Họ
hút thuốc lào bằng điếu cày là phổ biến. Nếu chủ nhà tự tay nạp thuốc vào điếu
mời khách hút, được coi là cử chỉ quí mến khách. Trong năm, người Hmông ăn hai
tết lớn: tết năm mới vào đầu tháng 12 âm lịch (lịch mỗi tháng có 30 ngày, hết
12 tháng là tết), tết ngày 5 tháng 5- tết Đoan ngọ. Ở Việt Bắc, người H'mông
còn ăn tết vào ngày 13 tháng 3 và ngày 13 tháng 6 hàng năm. Ở Lào Cai, Yên Bái
người Hmông ăn tết ngày 7 tháng 7 (tết đốt vàng mã cho tổ tiên). Tết Đoan ngọ
(ngày 5 tháng 5) mới là ngày quan trọng nhất, ngày sum họp đại gia đình và gặp
gỡ người cùng giao trong bữa tiệc cỗ rượu linh đình.
Các vùng người H'mông sinh sống thường có chợ phiên. Chợ
phiên qui định họp 6 ngày một lần (có nơi 5 ngày một phiên). Quan hệ trao đổi
hàng hoá trên cơ sở vật đổi lấy vật, dùng tiền tệ trao đổi rất ít. Chợ phiên vừa
là nơi trao đổi hàng hoá, vừa là nơi gặp gỡ các tầng lớp trong xã hội. Chợ giao
lưu được tổ chức mỗi năm một lần (chợ Sa Pa) là một
nét văn hoá đẹp đặc sắc của người H'mông.
Trang phục cổ truyền của người phụ nữ H'mông gồm: váy, áo xẻ
ngực, yếm lưng, có tấm vải che phía trước và vuông vải nhỏ che lưng phía sau,
thắt lưng, khăn quấn đầu, chân vấn xà cạp. Váy hình nón cụt, xếp nhiều nếp xoè
rộng. Phụ nữ H'mông trắng mang trang phục váy trắng, áo xẻ ngực có thêu hoa văn
ở cánh tay và yếm lưng. Phụ nữ H'mông trắng cạo tóc xung quanh và để chỏm lớn ở
đỉnh đầu, quấn khăn vành rộng. Phụ nữ H'mông Hoa mang trang phục váy màu chàm,
có thêu hoa ở gấu váy. Mặc áo xẻ nách, trên vai và ngực có cạp thêm vải màu,
thêu hình hoa văn con ốc. Phụ nữ H'mông Hoa để tóc dài quấn quanh đầu, sau đó
còn quấn thêm tóc giả. Phụ nữ H'mông Đen mang trang phục váy màu chàm, có in
hoa văn ở gấu, ngắn hơn váy Hmông Hoa, mặc áo xẻ giữa ngực, thêu hoa văn ở cánh
tay và hò áo. Phụ nữ H'mông Xanh mang trang phục váy hình ống màu chàm, gấu váy
thêu hoa văn hình chữ thập trong hình các ô vuông, áo mở chếch ngực xẻ thẳng về
bên trái, cài một cúc, cánh tay áo đắp thêm những miếng vải màu đỏ và cổ tay áo
có thêu hoa văn. Người Hmông Xanh, con gái để tóc xoã ngang vai, khi lấy chồng
mới quấn tóc lên đỉnh đầu và dùng lược móng ngựa cặp ngược tóc về phía trước,
trùm khăn trên đầu.
Ngày nay, trang phục phụ nữ H'mông có những thay đổi: phụ nữ
H'mông Sa Pa mặc quần ống ngắn và hẹp, áo khoác ngoài kép xẻ ngực cổ cứng thiêu
hoa văn. Phụ nữ H'mông Trắng Sơn La mặc quần ống dài, mặc áo cánh trắng bên
trong, măc áo cổ truyền bên ngoài. Phụ nữ H'mông Hoa mặc áo hở nách.
Nam giới mặc
áo xẻ nách và xẻ ngực, thường có 4 túi, cài 4 khuy. Quần ống bó cắt kiểu chân
què. Nam giới H'mông Sa Pa mặc áo khoác ngoài
kép, xẻ ngực không có tay, cổ đứng thiêu hoa văn.
Người H'mông có những đồ trang sức: khuyên tai, vòng cổ,
vòng tay, nhẫn đồng, nhẫn bạc, nhẫn vàng. Nếu trên tay có 2 nhẫn là người đó đã
có vợ hoặc có chồng. Phụ nữ thích dùng chiếc ô màu sắc đẹp, vừa có tác dụng che
mưa, che nắng và làm vật trang sức cho mình, tạo nên nét duyên dáng.
Người H'mông có một đời sống tinh thần đa dạng và phong phú
về phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng và chữ viết, tiếng nói, văn hoá nghệ thuật.
Nhà ở của người H'mông được xây dựng tương đối thống nhất.
Nhà được xây dựng trên nền đất, gồm 3 gian 2 chái. Gian giữa đặt bàn thờ, hai
bên bố trí bếp và buồng ngủ. Buồng ngủ không được bố trí ngang hàng với bàn thờ.
Nhà giàu có được xây dựng kiên cố, cột gỗ kê trên đá tảng đẽo hình đèn lồng hay
như quả bí, mái lợp ngói, gác lát ván. Nhà của người nghèo xây dựng đơn giản, cột
ngoảm, vách nứa hay ván bổ, mái tranh. Nhà được mở từ 2 đến 3 cửa, cửa chính đối
diện với bàn thờ. Các chuồng trại chăn nuôi làm tách riêng ra một khu vực.
Hôn nhân của người H'mông thông qua mua bán và có phần tin
vào tín ngưỡng. Trong lễ ăn hỏi, người H'mông tin rằng đôi trai gái có hợp nhau
hay không là do lễ cúng "xem chân gà". Người con gái được định giá
thông qua giá trị vật chất thịt, rượu, bạc trắng, thuốc phiện. Mỗi đám cưới thường
nhà gái yêu cầu từ 60 đến 120 đồng bạc trắng, từ 60kg đến 120kg thịt lợn, từ
60kg đến 120kg rượu và một số thuốc phiện. Giá trị vật chất nhà gái yêu cầu
càng nhiều đối với nhà trai thì người con gái đó càng hoàn hảo về tài sắc.
Trong quan hệ hôn nhân con dì, con già, con cô, con cậu được phép lấy nhau. Điều
đặc biệt là con trai cậu được phép lấy con gái cô, đó là một điều tốt đẹp trong
gia đình (nước tốt không để chảy vào ruộng người) và (vì tôi đã để vật quí ở
đây thì phải lấy lại nó). Người Hmông có phong tục em chồng được phép lấy chị
dâu (nếu anh trai bị chết), ngược lại chị dâu có quyền lấy em chồng là để giữ
gìn tài sản và có trách nhiệm nuôi dưỡng các cháu của anh trai. Nếu em chồng đã
có vợ thì chị dâu chỉ được làm vợ lẽ. Trong trường hợp gia đình không có em chồng
thì chị dâu được phép lấy em họ. Tục cướp vợ rất phổ biến: một nhóm thanh niên
từ 3 đến 5 người, tổ chức họp nhau đón đường bắt cóc người con gái mang về nhà
mình (dù người con gái đó có bằng lòng hay không bằng lòng). Trong thời điểm
người con gái bị cướp mọi người trong họ hàng, gia đình, anh em không được phép
tham gia giải cứu. Sau hai hôm cướp vợ, nhà trai cử người sang nộp phạt tiền
danh dự cướp vợ và báo cho gia đình nhà gái biết sự việc. Sau đó, hai bên gia
đình bàn bạc, ấn định ngày lành tháng tốt để tổ chức lễ thành hôn cho đôi trai
gái. Trong quan hệ hôn nhân giữa những người trong cùng một dòng họ bị cấm triệt
để, không được phép lấy nhau. Những người không phải là anh em nhưng cùng mang
tên dòng họ, hôn nhân diễn ra cũng rất dè dặt. Người H'mông tin rằng quan hệ
hôn nhân với dòng họ khác thì làm ăn mới phát đạt, nòi giống mới phát triển tốt.
Trước kia, ma chay của người H'mông thường được tổ chức kéo
dài từ 5 đến 7 ngày, ngày nay giảm xuống còn từ 2 đến 3 ngày. Khi gia đình có
người chết, họ đi mời người (thầy mo) đến làm thủ tục cúng hát mở đường, sau đó
mới tiến hành khâm liệm (áo ngoài bằng lanh thì mới được đoàn tụ với tổ tiên).
Cách hành xử mỗi nơi mỗi khác: có nơi để người chết trên "cáng" treo
trước bàn thờ hoặc để trên ghế dài đặt ngang cửa ra vào. Có nơi người chết được
đặt vào quan tài nhưng không đậy nắp để dễ dàng xem mặt người chết. Trong lúc
hát mở đường đến đoạn sự tích gà dẫn đường cho người chết về với tổ tiên, người
ta mang một con gà đã chết để nguyên lông đặt trong âu bột ngô để phía dưới người
chết. Trong đám ma người Hmông dùng khèn và trống để thực hiện nghi lễ tiễn đưa
người chết về với tổ tiên được êm đẹp. Sau khi chôn cất xong, nếu là nam giới,
người ta cắm 9 cành lá, nữ giới cắm 7 cành để đánh lạc hồn người chết không
quay về làm hại những người thân trong gia đình. Lễ cúng đưa hồn người chết về
với tổ tiên sau khi chôn cất hoặc kéo dài một hay vài năm.
Thờ cúng tổ tiên, đó là thờ cúng ông bà, cha mẹ và những
người đồng tộc đã chết. Người ta tin rằng tổ tiên đã chết, che chở cho con cháu
đang sống làm những nghi lễ cầu xin cho các thành viên thị tộc hay gia đình và
tiến hành những nghi thức nhằm thờ phụng tổ tiên. Bàn thờ tổ tiên thường đặt ở
vị trí gian giữa, nhiều dòng họ H'mông không lập bàn thờ tổ tiên riêng. Nơi thờ
cúng tổ tiên chỉ là một miếng giấy hình chữ nhật kích thước 20- 30cm. Nơi đặt
bàn thờ là linh thiêng, chỉ có chủ gia đình mới được làm chủ lễ cúng mời tổ
tiên, chỉ có con trai mới được đến gần bàn thờ. Người H'mông chỉ cúng tổ tiên
vào dịp năm mới, lễ cơm mới hoặc khi cần cúng chữa bệnh… đối với hồn cụ, ông,
cha ở thế giới bên kia.
Bên cạnh thờ cúng tổ tiên, người Hmông còn tồn tại một hệ
thống ma nhà với những lễ thức cúng bái riêng biệt: "Xử Cả" là ma có
vị trí quan trọng trong hệ thống các ma nhà người Hmông, gắn liền với sự giàu
có, nhất là tiền bạc. Nơi thờ "Xử Cả" ở tấm ván hậu gian giữa nhà. Chỗ
thờ được dán hai miếng giấy bản màu vàng và bạc cắm 3 hoặc 9 lông gà, bôi ít
máu gà. Mỗi năm cúng xử cả một lần vào đêm 30 tết, đồ cúng là một con gà trống
màu đỏ.
"Bùa Đáng" (ma lợn) được thờ ở cột chính trong
nhà, cột tượng trưng cho sự hưng thịnh và vận mệnh của gia đình. Ma lợn chỉ có
chủ gia đình mới được cúng, vật cúng là lợn nái đã đẻ một lứa. Trong đời một
người con trai phải làm lễ cúng cột chính 1 hoặc 2 lần, nhằm tưởng nhớ và làm
tròn đạo hiếu giữa người còn sống đối với người đã chết. Cúng ma cột chính,
theo quan niệm của người H'mông còn nhằm tạ ơn những người xưa kia đã giúp người
Hmông qua hoạn nạn, để tìm chữ viết đã mất.
"Xìa Mình"(ma cửa), có nhiệm vụ ngăn ma ác vào
nhà, bảo vệ gia súc, bảo vệ của cải, bảo vệ các hồn, ngăn không cho hồn các thành
viên gia đình bỏ đi. Theo quan niệm của đồng bào, ma cửa thường ngự ở miếng vải
đỏ dán trước cửa chính. Ma cửa thường được cúng vào dịp tết, khi có người ốm
đau hoặc mất tài sản. Lễ vật cúng là con gà trống, khi có điềm xấu chủ nhà phải
cúng ma cửa bằng lợn- gọi là lễ cúng lớn.
"Hú Sinh" (ma bếp) có liên quan đến việc sinh nở
của phụ nữ và phù hộ cho việc chăn nuôi gia súc. Do đó kiêng giẫm chân lên bếp
lò, kiêng làm hư hại lòng lò bằng đất, không được gõ và đánh vào bếp cám lợn,
lúc lợn chửa kiêng không lấy tro trong bếp lò. Muốn nhấc chảo cám ra phải để một
hòn đá vào giữa bếp, nếu không làm như vậy, gia súc dễ bị dịch bệnh chết, phụ nữ
khó đẻ hoặc đẻ ra quái thai, dị hình.
"Nhìu Đáng" (ma trâu), trong đời người con trai
phải cúng báo hiếu bố mẹ, một lần. Vật cúng là trâu to, lớn, khoẻ mạnh. Lễ cúng
tuỳ từng gia đình, dòng họ qui định, cúng ở trong nhà hay ở vị trí nào đó ngoài
trời. Người cúng phải hiểu lai lịch dòng họ.
Như vậy, thờ cúng tổ tiên ở người Hmông đã được hình thành,
quan niệm tổ tiên đã mở rộng đến ba đời- quan niệm này gần gũi với tâm thức thờ
cúng tổ tiên của người Tày, người Dao, người Kinh.
Người Hmông thờ cúng thần cộng đồng "Giao" (thần
thổ địa). Thần thổ địa được thờ ở một gốc cây to, hoặc hòn đá lớn trong một khu
rừng cấm. Đồng bào quan niệm thần
của "Giao" chi phối cuộc sống của cộng đồng "Giao". Người
dân trong "Giao" khoẻ mạnh, mùa màng bội thu, gia súc nhiều, dân số
tăng là nhờ thần phù hộ. Hàng năm vào ngày Thìn của tháng hai (hoặc ngày mồng 2
tháng 2) đại diện các gia đình các gia đình trong "Giao" đến khu rừng cấm, nơi thờ thần làm lễ cúng
thần, lễ vật cúng là gà, hoặc
lợn và rượu. Người đứng đầu "Giao" trịnh trọng cầu khấn thần linh phù
hộ. Nội dung bài cúng thần tỏ rõ lòng tôn kính nhưng vẫn thân mật và bình đẳng
với thần. Quan hệ người dân với thần như trong cộng đồng "Giao" bình
đẳng, thân ái, giúp đỡ lẫn nhau. Ở đây thần cũng bình đẳng như một thành viên của
cộng đồng. Thần chưa có sức mạnh siêu phàm tuyệt đối, chưa đứng trên cộng đồng.
Do đó, cộng đồng dâng lễ vật cho thần thì thần phải có nghĩa vụ phù hộ, bảo vệ
cộng đồng "Giao".
Ngoài ra, người Hmông còn có những hình thức sinh hoạt tín
ngưỡng khác như: hồn xác con người (người có ba hồn ở đỉnh đầu, ngực và rốn), một
số kiêng cữ không ăn vật tổ, ma thuật (ma ngũ hải), kiêng kị trong sinh đẻ,
trong cưới xin, nghi thức tang ma, lễ Nào xồng, lễ hội Gầu Tào, lễ cầu tự và
còn rất nhiều hình thức sinh hoạt tín ngưỡng
mang tính chất huyền bí khác.
Ngoài những yếu tố tinh thần truyền thống, người H'mông còn
tiếp thu yếu tố văn hoá mới Kitô giáo (đạo Thiên Chúa và đạo Tin Lành). Từ năm
1888, thực dân Pháp chiếm đóng Sa Pa đã
có ý định xây dựng các cơ sở truyền giáo. Nhưng mãi tới năm 1921, mới có 5 gia
đình H'mông theo đạo và đến những
năm 40 của thế kỷ XX, chỉ có 33 hộ gia đình người H'mông ở 11 làng theo đạo.
Người H'mông ở Sa Pa theo
đạo không chỉ do yêu cầu tín ngưỡng khao khát một niềm tin mà chủ yếu là do sự
thúc đẩy của tâm lí thực dụng. Họ cần đi theo chúa không chỉ vì hạnh phúc trên
thiên đàng mà vì những vấn đề thiết thân trong cuộc sống đang đặt ra (được cấp
ruộng nương, có chỗ dựa mới, bỏ lễ cúng ma đầy tốn kém… Người H'mông coi tôn
giáo chỉ là phương tiện nhằm giải quyết những nhu cầu bức xúc của đời sống chứ
không quan tâm nhiều về triết lí, về hạnh phúc hư ảo ở thế giới bên kia.
Như vậy, đời sống sinh hoạt tinh thần của người H'mông
đã được pha trộn giữa đạo lí Gia tô vào đạo lí người H'mông, như một yếu tố văn
hoá mới gá lắp vào đời sống sinh hoạt tinh thần của họ.
Người H'mông có nhiều dòng họ: Giàng, Thào, Lù, Vù, Sùng,
Mã, Lùng, Hầu, Ly, Vàng, Tẩu, Tráng, Hản, Thèn, Cù. Tên của các dòng họ được đặt
theo tên con vật, màu sắc, cây cối, đồ vật và một số họ có tính chất chung
chung không xác định được nội hàm tên gọi. Các họ lấy tên con vật; Sùng (gấu),
Hầu (khỉ, Lồ (lừa), Má (ngựa), Giàng (dê), Lùng (rồng); họ lấy tên màu sắc;
Hoàng (màu vàng), Lù (màu xanh), Hùng (màu đỏ); họ lấy tên cây: Thào (đào), Lý
(mận); họ lấy tên đồ vật: Cư (trống), Thèn (thùng) và một số không xác định được
tên họ: Mùa, Châu, Phàng, Tẩn, Tráng, Vàng, Lầu, Vừ… Mỗi họ có những điều kiêng
kị và những lễ nghi cúng bái riêng biệt: họ Giàng kiêng ăn quả tim con vật, họ
Hờ kiêng ăn thịt khỉ, họ Lý kiêng ăn lá lách con vật, con dâu dòng họ Lầu kiêng
quét dọn bếp. Sự khác nhau giữa các dòng họ trong các nghi lễ thờ cúng tổ tiên,
ma chay, cúng ma… là ở số lượng bát cúng, cách bày bát, địa điểm cúng, bài
cúng, cách thức ăn uống và chia thịt; họ Sùng bày 13 bát và chia thịt từ trái
sang phải, họ Giàng bày 33 bát theo đường vòng tròn từ phải qua trái, họ Má bày
19 bát theo đường thẳng. Những người trong cùng một họ là cùng tổ tiên sinh ra
phải có nghĩa vụ giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống như ma chay, cưới xin, làm
nhà mới, ốm đau bệnh tật, sinh đẻ, theo đuổi các vụ kiện cáo. Cho dù ở xa cách
nhau bao nhiêu những người cùng họ có thể sinh đẻ và chết trong nhà của nhau mà
không sợ tổ tiên trách cứ. Đứng đầu mỗi dòng họ là trưởng tộc, người có đạo đức,
uy tín và am hiểu sâu sắc phong tục tập quán của dòng họ, giàu kinh nghiệm tổ
chức sản xuất, gánh vác hướng dẫn các gia đình khi có ma chay, cưới xin, giải
quyết mâu thuẫn xích mích giữa các thành viên. Người trưởng tộc là người đại diện
cho dòng họ giao thiệp với chính quyền và các dòng họ khác, đồng thời còn là
người tổ chức các vụ kiện, đi đòi nợ máu xưa kia. Có người tộc trưởng do các
thành viên dòng họ bầu ra nhưng cũng có nơi lại do người tộc trưởng cũ tìm chọn
và bồi dưỡng. Như vậy, đặc trưng dòng họ người H'mông là sự thống nhất về tư tưởng,
thông qua tín ngưỡng với những điều kiêng kị lễ nghi riêng của dòng họ, đã tạo
nên sự cố kết lâu bền trong quan hệ giữa các thành viên, còn về mặt xã hội và
nhất là kinh tế càng trở nên mờ nhạt.
Tổ chức gia đình của người H'mông là gia đình nhỏ phụ hệ (gồm
hai thế hệ bố mẹ và con cái sống với nhau). Đứng đầu gia đình là người đàn ông,
người đó có nghĩa vụ gánh vác công việc gia đình: đi làm nương rẫy, khấn tổ
tiên, đón thầy cúng, thay mặt gia đình tham gia công việc Giao, mà bất cứ phụ nữ
nào cũng không có quyền làm thay, làm hộ. Trong gia đình người H'mông người ta
quí trọng con trai hơn con gái, vì thế gia đình nào có nhiều con trai là niềm
kiêu hãnh trong thôn xóm, bản làng. Nếu trong gia đình có mối bất hoà giữa vợ
và chồng, thì con dâu chỉ được lánh nạn sang hàng xóm, không được phép trở về
nhà bố mẹ đẻ. Nếu con dâu muốn về thăm bố mẹ đẻ phải xin phép nhà chồng và được
chồng đưa về tận nhà mới hợp lệ. Khi vợ chồng li dị, người đàn bà không được trở
về sống với bố mẹ đẻ mà đến ở nhờ nhà chức dịch cho tới khi tái giá. Người đàn
bà goá không muốn lấy em chồng mà lại lấy người khác thì toàn bộ tài sản phải để
lại nhà chồng. Trong gia đình, người con gái tự cho mình là người khách, tự do
đi lại và ăn uống không phải kiêng khem như con dâu trong nhà. Phân chia tài sản,
con trai được chia đều nhau, bố mẹ giữ một phần tài sản bằng các con trai, con
gái đi lấy chồng được bố mẹ đẻ chia cho của hồi môn. Nhìn chung, cuộc sống gia
đình người H'mông tương đối hoà thuận, vợ chồng gắn bó với nhau như hình với
bóng, khi đi chợ cũng như đi làm nương rẫy và thăm thân họ hàng bên nội, ngoại,
chồng đi trước vợ đi sau. Trong mối quan hệ gia đình, ông cậu và bà cô có vai
trò vô cùng quan trọng.
Ngoài ra, người H'mông còn có một nền văn hoá nghệ thuật
phong phú, truyện cổ dân ca chiếm một vị trí quan trọng, gồm nhiều loại (cúng
ma, tình yêu, cưới xin, làm dâu, mồ côi…). Các loại nhạc cụ như khèn, kèn lá,
đàn môi và các loại hình hoa văn trang trí trên trang phục phụ nữ là những tác
phẩm nghệ thuật dân gian đẹp, cái đẹp tươi sáng tự nhiên của vùng cao.
Dân tộc H'mông sinh sống rải rác khắp mọi nơi trên miền núi
rừng phía Bắc Việt Nam và Tây Nguyên, nhưng vẫn giữ được bản
sắc văn hoá độc đáo của họ. Văn hoá H'mông là một thành tố văn hoá Việt Nam, bản sắc văn hoá độc đáo của họ đã
đóng góp và làm phong phú cho niền văn hoá Việt Nam "thống
nhất trong đa dạng, đa dang trong thống nhất".
Nguyễn Đăng Văn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét