Thiếu nữ H'Mông đỏ
Người
H'Mông (hay Hơ-Mông) là một nhóm dân tộc thiểu số, có địa bàn cư trú truyền thống
là Trung Quốc và các nước lân cận thuộc tiểu vùng Đông Nam Á. Người H'Mông nói
tiếng tiếng H'Mông, một ngôn ngữ chính trong hệ ngôn ngữ H'Mông-Miền. Người
H'Mông bao gồm các phân nhóm: H'Mông, H'mu, H'mao và Ghao Xong. Bên ngoài Trung
Quốc thì chủ yếu thuộc phân nhóm H'Mông.
Tại
Việt Nam người H'Mông (trước đây còn gọi là người Mèo) là một trong các dân tộc
thiểu số có dân số đáng kể trong số 54 dân tộc tại Việt Nam.
Tại
Lào họ được gọi là người Mẹo hay Lào Sủng. Tại Thái Lan theo tiếng Thái là แม้ว Maew hay ม้ง Mông.
Tại
Trung Quốc, họ được gọi là Miêu (tiếng Trung: 苗; bính âm: Miáo), và tên gọi này được dùng trong văn
liệu quốc tế là Miao, như tiếng Anh Miao people. Người Miêu được chính phủ
Trung Quốc công nhận là một trong 55 dân tộc thiểu số tại Trung Quốc. Người
Miêu tạo thành nhóm dân tộc lớn thứ 5 tại Trung Quốc.
Miêu và H'Mông.
Thuật
ngữ "Miêu" và "H'Mông" ("Mèo" và
"H'Mông" tại Việt Nam), hiện thời đều được sử dụng để chỉ một trong
những nhóm thổ dân ở Trung Quốc. Họ sống chủ yếu ở miền nam Trung Quốc, trong
các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng Tây và Hồ Bắc. Theo điều
tra dân số năm 2000, số lượng người Miêu ở Trung Quốc khoảng 9,6 triệu.
Ngoài
phạm vi Trung Quốc họ còn sống ở Thái Lan, Lào (ở đó gọi là Lào Sủng), Việt Nam
và Myanmar do di cư bắt đầu vào khoảng thế kỷ 18, cũng như tới Hoa Kỳ, Guyana
thuộc Pháp, Pháp và Úc như là kết quả của các cuộc di cư gần đây sau khi kết
thúc chiến tranh Việt Nam. Tất cả các nhóm này cộng lại xấp xỉ 8 triệu người
nói tiếng Miêu. Tại Việt Nam, có khoảng trên 780.000 người H'Mông.
Tiếng
H'Mông bao gồm 3 phương ngữ, với 30-40 thổ ngữ có thể hiểu lẫn nhau được, cùng
với tiếng Bunu, thuộc về nhánh Miêu trong hệ ngôn ngữ H'Mông-Miền (hay hệ
Miêu-Dao).
Đám cưới H'Mông Đen
Các
nhà nghiên cứu phương Tây xử lý vấn đề thuật ngữ này không thống nhất. Những
người đầu tiên sử dụng tên gọi theo kiểu Trung Hoa trong một loạt các phiên âm:
Miao, Meau, Meo, Mo, Miao-tse, Miao-tsze, Miao-tseu (Miêu tộc) v.v. Tuy nhiên,
do ảnh hưởng của người H'Mông ở Lào, một số nhà nghiên cứu đương đại đã chấp nhận
thuật ngữ khác là "H'Mông".
Bản thân người Miêu thì sử dụng hàng loạt các tên tự gọi khác nhau. Thông thường phân loại theo màu sắc chủ yếu đặc trưng nhất của phụ nữ Miêu. Danh sách dưới đây liệt kê các tên tự gọi, tên gọi màu sắc và khu vực chính mà 4 nhóm chính của người Miêu:
Bản thân người Miêu thì sử dụng hàng loạt các tên tự gọi khác nhau. Thông thường phân loại theo màu sắc chủ yếu đặc trưng nhất của phụ nữ Miêu. Danh sách dưới đây liệt kê các tên tự gọi, tên gọi màu sắc và khu vực chính mà 4 nhóm chính của người Miêu:
Ghao
Xong; Miêu đỏ.
Hmu,
Gha Ne (Ka Nao); Miêu đen.
Hmao;
Miêu hoa lớn.
H'mông;
Miêu trắng, Miêu xanh, Miêu hoa nhỏ.
Chỉ có nhóm thứ tư sử dụng thuật ngữ "Hmông" (hay "H'Mông"). Ngoài ra, chỉ có người Hmông (và một số Hmu). Những người H'mông cho rằng thuật ngữ "Hmông" không chỉ để nói tới nhóm thổ ngữ của họ, mà còn là để chỉ các nhóm khác. Nói chung, họ cho rằng thuật ngữ "Miao" (hay "Miêu") là một thuật ngữ xúc phạm và không nên sử dụng nó. Thay vì điều này thuật ngữ "H'mông" được sử dụng để chỉ mọi nhóm người thuộc dân tộc này. Tuy nhiên, điều này có thể là kết quả của sự nhầm lẫn biểu hiện và ý nghĩa của từ.
Trung
Hoa xâm lược đặt cho người H'mông tên gọi "Miao" (hay
"Miêu"), sau đó trở thành "Meo" (Mèo) và "Man"
(Mán). Thuật ngữ sau để chỉ những kẻ "man di, mọi rợ ở miền nam". Từ
"miêu" cũng được sử dụng trong các ngôn ngữ khác của khu vực Đông Nam
Á như tiếng Việt, Lào, Thái v.v. trong dạng "Meo" (tức là
"Mèo"). Mặc dù rất nhiều người nói các thứ tiếng này (và cả người
Trung Quốc) không nghi ngờ gì khi cho rằng "Miêu" là những kẻ man di,
nhưng điều này không có cách gì để chứng minh từ này có nghĩa như vậy. Có thể
những người nói tiếng Việt, Lào, Thái đã lấy từ "miao" (miêu) từ tiếng
Trung Hoa, nhưng đã bỏ mất ý nghĩa nguyên thủy của nó là "cây giống"
và sử dụng nó chỉ để gọi những người mà họ cho là man rợ. Nó được phát âm với
giọng sai trong tiếng Thái hay với giọng cao trong tiếng Hán Quảng Đông thì có
ý nghĩa là "mèo" (đây là khả năng của nguồn gốc tượng thanh). Trong
cách dịch của người Việt các từ Hán-Việt thì "miêu" cũng là
"mèo". Điều này giải thích tại sao lại có sự phản đối quyết liệt như
vậy chống lại thuật ngữ "miêu" trong các nhóm người H'mông tại khu vực
Đông Nam Á.
Những
người còn lại thì có ý kiến cho rằng "H'mông" là thích hợp hơn so với
"Miêu" trong mọi vai trò của tên gọi chung. Kể từ khi có phân loại
chính thức các dân tộc thiểu số trong thập niên 1986 một số dân tộc thiểu số đã
khiếu nại về từ ngữ Mông do chính quyền muốn áp đặt, thay đổi cách sử dụng
chính thức của tiếng H'Mông. Chính quyền đưa ra một lý do khác cho là thực dụng:
không có khả năng đưa từ "H'Mông" vào trong tiếng Việt do âm tiết của
nó không tồn tại trong tiếng Việt. (Cũng giống như trong tiếng Anh là có rất ít
người có khả năng phát âm các âm điếc giọng mũi). Tuy nhiên, trong tiếng Anh,
không giống như tiếng Việt, người ta có khả năng viết được từ "H'Mông".
Cướp vợ
Ngôn
ngữ.
Cho
đến nay chúng ta đều biết đến tiếng H'Mông là một ngôn ngữ nằm trong hệ ngôn ngữ
H'Mông-Miền (hay Miêu-Dao). Nhưng trên thực tế vấn đề phân loại theo quan hệ họ
hàng của ngôn ngữ này đã từng có nhiều ý kiến khá khác nhau. Một số nhà ngôn ngữ
học xếp tiếng H'Mông thuộc nhánh Miêu-Dao trong ngữ hệ Hán-Tạng. Trong những ý
kiến đáng chú ý ta còn phải kể đến Paul K. Benedict với quan điểm quy các ngôn
ngữ trong khu vực thành 2 hệ cơ bản: Hán-Tạng và Nam Thái. Trong đó vị trí các
ngôn ngữ H'Mông-Miền được định vị trong hệ Nam Thái.
Còn
André G. Haudricourt từng bước đem so sánh cả hệ thống thanh điệu và cả lớp từ
vựng cơ bản giữa các ngôn ngữ H'Mông-Miền với các ngôn ngữ của ngữ hệ Hán-Tạng
và hệ Nam Á. Ông đã cho rằng "các ngôn ngữ Miao-Yao hình như tạo nên mối
liên hệ giữa các ngôn ngữ Nam Á và các ngôn ngữ Tạng-Miến". Đây cũng chính
là cơ sở để một hướng các nhà ngôn ngữ sau này không xếp các ngôn ngữ H'Mông-Miền
vào Nam Á hay Hán-Tạng mà là một họ ngôn ngữ độc lập vì những kiến giải của
Haudricourt "không thuần tuý là sự so sánh từ vựng mà là sự phục nguyên, một
thao tác thể hiện tính quy luật của những chuyển đổi âm thanh". Kế thừa những
nghiên cứu đi trước, Martha Ratliff đã đưa ra một bảng phân loại các ngôn ngữ
H'Mông-Miền khá chi tiết trong đó tác giả đã định vị hệ H'Mông trắng (Mông Đỏ)
như sau:
Hệ
ngôn ngữ: H'Mông-Miền (H'mong-Mien)
Nhóm
ngôn ngữ: H'Mông
Nhánh:
thuộc các phương ngôn Tứ Xuyên - Quý Châu - Vân Nam, còn gọi là nhánh H'Mông
phía Tây.
Tiểu
nhánh: Tứ Xuyên - Quý Châu - Vân Nam
Phương
ngữ: H'Mông trắng (White Hmong)
Trong
cuốn từ điển Bách khoa thư ngôn ngữ đã phân các ngôn ngữ H'Mông-Miền thành hai
nhánh chính:
H'Mông
- gồm có: Dananshan H'mong, H'mong Đông, H'mong Bắc, H'mong Tây, H'mong Daw, H'mong
Njua, Miao Đỏ, Pa Heng, Punu
Miền
(hay Dao) - gồm có: Ba Pai, Mien, Biao Mien, Iu mien, Mun, She ở đây H'Mông
Leng (H'Mông Lềnh) được xác định như một tên gọi khác của hệ H'Mông Njua
(H'Mông Xanh) nằm trong nhánh H'Mông.
Lịch
sử.
Lịch
sử người Miêu có lẽ từ cuối thời kỳ băng hà. Lịch sử sơ kỳ của họ có thể lần
theo dấu vết của các câu truyện truyền khẩu và các lễ nghi an táng của họ.
Trong
truyện truyền khẩu, truyền thuyết của người Miêu nói rằng họ đã đến từ những
vùng đất cực kỳ lạnh lẽo, ở nơi đó bóng tối kéo dài 6 tháng và ánh sáng cũng
kéo dài 6 tháng. Từ nơi này, họ đã đến Trung Quốc theo những chuyến đi săn. Một
người thợ săn và con chó của ông đã theo đuổi con mồi trong một số ngày trong
tuyết. Người thợ săn hết lương thực và phải quay về để chuẩn bị tiếp tục đi săn
mà không có con chó của mình. Khi người thợ săn bắt đầu lên đường trở lại thì
con chó đã ở phía sau lưng ông. Người thợ săn hôn hít con chó của mình và phát
hiện thấy có những hạt cây lạ dính trên lông của nó. Lúc đó, tuy người Miêu cho
rằng toàn thể thế giới đã được thám hiểm hết, nhưng những hạt lạ đã dẫn dắt họ
tới Trung Hoa.
Nơi
thứ hai, trong đó miêu tả người Miêu từ nơi nào đến diễn ra trong nghi thức an
táng "chỉ đường" của họ. Trong nghi thức này, người đã chết được chỉ
dẫn cho về với tổ tiên. Người ta tin rằng người đã chết rời bỏ thế giới này để
trở về với cội nguồn của họ, là một nơi cực kỳ lạnh lẽo. Thời kỳ băng hà cuối
cùng đã kết thúc cách đây khoảng 10.000 năm và nó xảy ra cùng thời điểm với sự
ra đời của người hiện đại. Các điều kiện được miêu tả trong truyện truyền khẩu
và nghi thức an táng của người Miêu chắc chắn nói đến một thế giới chỉ có toàn
tuyết và băng giá, là những thứ thấy được cho đến khi kết thúc thời kỳ băng hà
gần đây nhất.
Tiếp xúc với người Hán.
Tiếp xúc với người Hán.
Tại
Trung Quốc, vương quốc Miêu đầu tiên được ghi chép có tên gọi là Cửu Lê và những
người cai trị nó có tước hiệu là Chiyou (Xi Vưu trong tiếng Hoa) hay Txiv Yawg
(trong tiếng H'Mông). "Trí Zờ" có nghĩa là "ông-cha", và là
tước hiệu tương đương nhưng không ít quyền lực hơn hoàng đế. Các tổ tiên
"Xi Vưu" được coi là dân tộc Liangzhu. Jiuli được cho là có quyền lực
đối với 9 bộ tộc và 81 thị tộc.
Lịch
sử theo truyền thuyết Trung Quốc
Theo
truyền thuyết Trung Hoa, bộ tộc của Xi Vưu đã bị đánh bại ở Trác Lộc (涿鹿, một địa danh cổ trên ranh
giới tỉnh Hồ Bắc và Liêu Ninh ngày nay) bởi liên minh quân sự của Hoàng Đế và
Viêm Đế, các thủ lĩnh của bộ tộc Hoa Hạ (華夏)
khi họ tranh giành quyền làm chủ lưu vực sông Hoàng Hà. La bàn được cho là lý
do quyết định trong chiến thắng của người Hoa Hạ. Trận đánh này, được cho là diễn
ra vào thế kỷ 26 TCN, đã diễn ra dưới điều kiện thời tiết mù sương và người Hoa
Hạ đã có thể chiến thắng tổ tiên của người Miêu là nhờ có la bàn.
Sau thất bại, bộ tộc ban đầu của người Miêu được chia ra thành hai nhóm bộ tộc nhỏ, là Miêu và Lê (黎). Người Miêu tiếp tục di chuyển về phía tây nam còn người Lê về phía đông nam giống như bộ tộc Hoa Hạ (ngày nay là người Hán) mở rộng xuống phía nam. Trong suốt chiều dài lịch sử Trung Hoa, họ được nói đến như những kẻ "man di" do sự chênh lệch ngày càng tăng trong văn hóa và kỹ thuật so với người Hán. Một bộ phận các bộ tộc này đã bị đồng hóa thành người Hán trong thời kỳ nhà Chu (1122 TCN-256 TCN).
Sau thất bại, bộ tộc ban đầu của người Miêu được chia ra thành hai nhóm bộ tộc nhỏ, là Miêu và Lê (黎). Người Miêu tiếp tục di chuyển về phía tây nam còn người Lê về phía đông nam giống như bộ tộc Hoa Hạ (ngày nay là người Hán) mở rộng xuống phía nam. Trong suốt chiều dài lịch sử Trung Hoa, họ được nói đến như những kẻ "man di" do sự chênh lệch ngày càng tăng trong văn hóa và kỹ thuật so với người Hán. Một bộ phận các bộ tộc này đã bị đồng hóa thành người Hán trong thời kỳ nhà Chu (1122 TCN-256 TCN).
Có một
phiên bản khác của thời kỳ hậu-Cửu Lê, người dân của Cửu Lê chia thành 3 nhóm
đi theo 3 hướng khác nhau. Người ta nói rằng Xi Vưu có 3 con trai, và sau khi Cửu
Lê thất thủ thì con trai cả của ông dẫn một số người về phía nam, con trai thứ
dẫn một số người về phía bắc còn người con trai út ở lại Trác Lộc và đã bị đồng
hóa theo văn hóa Hoa Hạ. Những người đi về phía nam thành lập ra nhà nước
San-Miêu. Có lẽ vì sự phân chia thành nhiều nhóm nhỏ nên rất nhiều dân tộc ở Viễn
Đông coi Xi Vưu là tổ tiên của mình, và vì thế nhiều câu hỏi được đặt ra về bộ
tộc thực sự của Xi Vưu cũng giống như của người Miêu hay các dân tộc khác. Ví dụ,
người Triều Tiên cũng cho Xi Vưu là tổ tiên của mình. Ngoài ra, theo chính sách
hợp nhất các bộ tộc hiện nay của Trung Quốc, Xi Vưu được nhắc đến như là một
trong những tổ tiên của người Trung Hoa cùng với các tổ tiên của người Hán là
Hoàng Đế và Viêm Đế.
Ghi
chú
Có
tài liệu cho rằng không phải là Viêm Đế (Thần Nông) mà là Đế Du Võng (cháu 6 đời
của Viêm Đế mới lập liên minh với Hiên Viên (sau này là Hoàng Đế) để chống lại
Xi Vưu). Cụ thể như sau: Viêm Đế (Thần Nông) - Đế Minh-Đế Nghi-Đế Lai-Đế Du
Võng, như vậy theo Lĩnh Nam chích quái thì Đế Du Võng là cháu gọi Lạc Long Quân
là chú do Đế Minh còn sinh ra Lộc Tục và Lộc Tục sinh ra Lạc Long Quân.
Các thời kỳ nhà Tần/Hán
Thuật
ngữ "Miêu" lần đầu tiên được sử dụng bởi người Hoa vào thời kỳ tiền Tần,
tức là trước năm 221 TCN, để chỉ các nhóm bộ tộc không phải là người Hoa ở
phương nam. Nó thông thường được sử dụng trong các tổ hợp như
"nanmiao", "miaomin", "youmiao" và
"sanmiao" (三苗 Sānmiáo).
Vào thời kỳ đó, những bộ tộc này sống ở phía nam sông Trường Giang, nhưng sau
đó đã bị người Hoa đẩy lui xa hơn nữa về phía nam. Do phần lớn lãnh thổ của sáu
triều vua (Đông Ngô, Đông Tấn, tiền Tống, Tề, Lương, Trần) nằm ở phía nam sông
này, việc khuất phục người Miêu đã là mối quan tâm chính để đảm bảo sự ổn định
của các triều đại này. Với sự cướp bóc của Ngũ Hồ ở các khu vực phía bắc con
sông này, nhiều người Hán đã di cư xuống phía nam càng tăng cường thêm việc đồng
hóa người Miêu thành người Hán.
Thời
nhà Đường
Vào
thời kỳ nhà Đường, người Miêu đã không còn là bộ tộc người chính không phải gốc
Hán, ngoại trừ tại khu vực tỉnh Vân Nam ngày nay, ở đó 6 chiếu (詔 có nghĩa là "vương quốc")
của người Miêu. Một số học giả cho rằng 6 chiếu là các nhóm người Di (Yi) hay
người Bạch (Bai). Vương quốc nằm phía nam nhất là Mông Xá Chiếu (蒙舍詔) hay Nam Chiếu thống nhất cả
6 chiếu để thành lập quốc gia độc lập vào đầu thế kỷ 8 với sự hỗ trợ từ phía
nhà Đường. Tước hiệu của người đứng đầu nhà nước này là Nam Chiếu Vương (南詔王), có nghĩa là Vua của Nam
Chiếu. Lo ngại về sự đe dọa ngày càng tăng từ phía Thổ Phồn (ngày nay là Tây Tạng)
đã thúc đẩy triều đình Trung Quốc thiết lập một quan hệ hữu nghị với cả hai nước
này. Nhà Đường cũng triển khai một khu vực quân sự, là Kiến Nam tiết sứ (劍南節度 Jiànnán Jiédǔ) nằm ở khu vực
ngày nay là phía nam tỉnh Tứ Xuyên và giáp biên giới với Nam Chiếu.
Nam Chiếu.
Trong
khoảng vài chục năm hòa bình đầu tiên ở thế kỷ 8, Nam Chiếu thường xuyên cống nộp
thông qua người đứng đầu quân sự trong khu vực quân sự này, Kiến Nam tiết độ sứ
(劍南節度使 Jiànnán Jiédǔshǐ), tới
triều đình của người Hán. Khi nhà Đường suy yếu trong thời gian giữa thế kỷ 8,
khu này đã có nhiều quyền tự do hơn. Họ đã yêu cầu các bộ tộc sống ở Nam Chiếu
phát triển lực lượng quân sự để chống lại nhà Đường. Những người cai trị Nam
Chiếu là những người nói tiếng trong nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến, nhưng dân chúng
thì có thể có cả tổ tiên của dân tộc H'mông ngày nay. Các thủ lĩnh quân sự
Trung Hoa có những sự hăm dọa và yêu sách quá đáng. Một ví dụ là sự từ chối yêu
cầu cho ngủ một đêm với hoàng hậu, vợ duy nhất của vua Nam Chiếu. Tất cả những
yêu sách quá đáng đó cũng như đồ cống nộp nặng nề đã làm nổ ra cuộc nổi loạn của
người Nam Chiếu trong niên biểu Thiên Bảo (742-756) của Đường Huyền Tông (hay
Đường Minh Hoàng). Trước khi hành quân chống lại thủ lĩnh khu quân sự, vua Nam
Chiếu đã cho khắc lý do của việc nổi dậy vào đá. Bia đá này ngày nay vẫn còn và
có thể nhìn thấy. Nhà Đường lẽ ra có thể dễ dàng đánh bại quân Nam Chiếu nhưng
sự tranh giành quyền lực trong các chỉ huy quân sự của khu này đã giúp cho quân
Nam Chiếu tiến sâu vào lãnh thổ nhà Đường, gần như đã tới Thành Đô, thủ phủ của
khu Kiến Nam. Việc bổ nhiệm các chức vụ cầm quyền bất tài cũng là một yếu tố. Nổi
tiếng nhất là trường hợp của Dương Quốc Trung, anh trai của Dương Quý Phi. Mặc
dù cuối cùng thì cuộc nổi loạn đã bị dẹp tan, nhưng nhà Đường cũng đã hoang phí
những nguồn lực quý báu lẽ ra có thể sử dụng để bảo vệ biên giới phía bắc, điều
đã dẫn tới cuộc nổi loạn của An Lộc Sơn gây ra nhiều thảm họa hơn.
Trong
những năm sau đó, Nam Chiếu luôn có ưu thế trong quan hệ với nhà Đường và Thổ
Phồn do cả hai nước này đều muốn liên minh với họ để cô lập kẻ thù của mình.
Nam Chiếu đã tận dụng được cơ hội này và nhanh chóng phát triển thành một thế lực
ở khu vực đông nam châu Á. Trong thời kỳ đỉnh cao của nó, các phần phía bắc của
Việt Nam, Lào, Thái Lan và Miến Điện, Quảng Tây và phần phía đông của Quảng
Đông, tây nam của Tứ Xuyên, Quý Châu và toàn bộ tỉnh Vân Nam ngày nay đều nằm
dưới sự kiểm soát của họ. Thành Đô và Đại La (Hà Nội ngày nay) đều bị cướp phá
hai.
Nam Chiếu dưới ảnh hưởng của nhà Đường trong các thế kỷ 8-9 đã dần dần chấp nhận văn hóa Trung Hoa cũng như trong thời gian đó đã xuất hiện mâu thuẫn nội bộ giữa các thị tộc đối địch. Cuối cùng họ Đoàn (段 duan4) đã thắng và thành lập Vương quốc Đại Lý. Trong thời nhà Đường và nhà Tống thuật ngữ "nam man" (南蠻 Nánmán, có nghĩa là "những kẻ man di phương nam không phải người Hán") đã được sử dụng. Tuy nhiên, tên gọi "miêu" vẫn được dùng để miêu tả một số dân tộc ở phương nam trong các sách của Phàn Xước (Fan Chuo) về các bộ tộc miền nam là Manshu (tức Man thư - viết năm 862).
Thời
nhà Minh và nhà Thanh.
Trong
thời nhà Minh và nhà Thanh (1368-1911) "miao" và "man"
(mán) đã được sử dụng đồng thời, từ thứ hai có lẽ là để gọi dân tộc Dao (傜 Yáo). Nhà Nguyên, Minh và
Thanh chưa bao giờ đồng hóa hay kiểm soát chặt chẽ được các bộ tộc thiểu số. Kết
quả là chính sách "dùng người man quản lý người man" (yiyi zhiyi) đã
được thực thi. Ngoài ra, bức tường bản sao của Vạn Lý Trường Thành ở miền nam
đã được dựng lên để bảo vệ và phân chia người Hán với những kẻ "man rợ miền
nam. Về mặt chính trị và quân sự thì người Miêu vẫn tiếp tục là viên sỏi trong
chiếc giày của đế chế Trung Hoa. Người Miêu đã có nhiều trận chiến chống lại
người Hán. Người Hán đã sử dụng các biện pháp chính trị để lừa gạt người Miêu,
họ tạo ra nhiều chức vụ với quyền lực thực sự cho người Miêu để lôi cuốn và đồng
hóa người Miêu vào hệ thống chính quyền Trung Hoa. Trong thời nhà Minh và
Thanh, các chức vụ chính thức như Kaitong (cai tổng) đã được tạo ra tại khu vực
Đông Dương. Người H'mông có thể tham gia vào các chức vụ này cho đến những năm
thập niên 1900, khi họ phải tham dự vào hệ thống chính trị thuộc địa của Pháp tại
Đông Dương.
Dân
số và địa bàn cư trú.
Người
Miêu sống chủ yếu ở Trung Quốc. Ngoài ra còn có khoảng 2.000.000 người H'Mông sống
ở các nước khác như Việt Nam, Lào, Myanma cũng như các quốc gia khác. Có khoảng
124.000 người sống ở Thái Lan, ở đây họ là một trong số 6 dân tộc chính sinh sống
trên núi.
Sau năm 1975 cộng đồng người H'Mông di cư sang sinh sống ở các nước như Mỹ, Pháp, Úc con số lên tới hàng 100.000 người (chủ yếu di cư từ Lào).
Sau năm 1975 cộng đồng người H'Mông di cư sang sinh sống ở các nước như Mỹ, Pháp, Úc con số lên tới hàng 100.000 người (chủ yếu di cư từ Lào).
Người
Miêu ở Trung Quốc.
Khu
vực người Miêu ở tỉnh Tứ Xuyên đã trở thành một phần của thành phố trực thuộc
trung ương Trùng Khánh mới thành lập năm 1997.
Trung
Quốc có số lượng người Miêu đông đảo hơn cả với hơn 7 triệu người (số liệu thống
kê 1990) phân bố ở các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng Tây, Hải
Nam và Hồ Bắc. Trong 56 dân tộc ở Trung Quốc, dân tộc H'Mông (Miêu) chỉ đứng
sau các dân tộc Hán, Choang, Mãn, Hồi.
Trong
các tỉnh trên, có 6 khu tự trị của người Miêu (chia sẻ một cách chính thức cùng
với các dân tộc thiểu số khác):
Khu
tự trị Kiềm Đông Nam người Miêu và Đồng (黔东南
Qiándōngnán), Quý Châu
Khu
tự trị Kiềm Nam người Bố Y và Miêu (黔南
Qiánnán), Quý Châu
Khu
tự trị Kiềm Tây Nam người Bố Y và Miêu (黔西南
Qiánxīnán), Quý Châu
Khu
tự trị Tương Tây người Thổ Gia và Miêu (湘西
Xiāngxī), Hồ Nam
Khu
tự trị Văn Sơn người Choang và Miêu (文山
Wénshān), Vân Nam
Khu
tự trị Ân Thi người Thổ Gia và Miêu, Hồ Bắc
Ngoài
ra còn có thêm 23 huyện tự trị của người Miêu:
Hồ Nam:
Ma Dương (麻阳 Máyáng),
Tĩnh Châu (靖州 Jīngzhōu)
và Thành Bộ (城步 Chéngbù)
Quý
Châu: Tùng Đào (松桃 Sōngtáo), Ấn
Giang (印江 Yìnjiāng), Vụ Xuyên (务川 Wùchuān), Đạo Chân (道真 Dǎozhēn), Trấn Ninh (镇宁 Zhènníng), Tử Vân (紫云 Zǐyún), Quan Lĩnh (关岭Guānlíng) và Uy Ninh (威宁 Wēiníng)
Vân
Nam: Bình Biên (屏边 Píngbiān),
Kim Bình (金平 Jīnpíng)
và Lộc Khuyến (禄劝 Lùquàn)
Tứ
Xuyên: Tú Sơn (秀山 Xiùshān),
Dậu Dương (酉阳 Yǒuyáng),
Kiềm Giang (黔江 Qiánjiāng)
và Bành Thủy (彭水 Péngshuǐ)
Quảng
Tây: Dung Thủy (融水 Róngshuǐ),
Long Thắng (龙胜 Lóngshēng)
và Long Lâm (隆林 Lōnglín)
Hải
Nam: Quỳnh Trung (琼中
Qióngzhōng) và Bảo Đình (保亭 Bǎotíng)
Phần
lớn người Miêu sinh sống trên các dãy núi hay ngọn đồi, chẳng hạn
Núi
Vũ Lăng (武陵 Wǔlíng) cạnh sông Tương Kiềm
(湘黔川边的武陵山 Xiāngqián Chuān Biān
Dí Wǔlíng Shān)
Núi
Miêu (苗岭 Miáo Líng), Kiềm Đông Nam
Núi
Nguyệt Lượng (月亮山 Yuèliàng
Shān), Kiềm Đông Nam
Đại
Tiểu Ma Sơn (大小麻山 Dà Xiǎo
Má Shān), Kiềm Nam
Đại
Miêu Sơn (大苗山 Dà Miáo
Shān), Quảng Tây
Núi
Ô Mông cạnh sông Điền Kiềm (滇黔川边的乌蒙山
Tiánqián Chuān Biān Dí Wūmēng Shān)
Vài
nghìn người Miêu đã rời bỏ quê hương để chuyển sang sinh sống ở các thành phố lớn
như Quảng Châu hay Bắc Kinh.
Người
H'mông ở Việt Nam.
Nằm
trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc H'Mông được coi là một thành viên quan
trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Dân tộc H'Mông cư trú
thường ở độ cao từ 800 đến 1500 m so với mực nước biển gồm hầu hết các tỉnh miền
núi phía Bắc trong một địa bàn khá rộng lớn, dọc theo biên giới Việt-Trung và
Việt-Lào từ Lạng Sơn đến Nghệ An, trong đó tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc
Đông và Tây bắc Việt Nam như: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La... Do tập
quán du mục nên một số người H'Mông trong những năm 1980, 1990 đã di dân vào tận
Tây Nguyên, sống rải rác ở một số nơi thuộc Gia Lai và Kon Tum.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người H’Mông ở Việt Nam có dân số 1.068.189 người, đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc ở Việt Nam, cư trú tại 62 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người H’Mông cư trú tập trung tại các tỉnh: Hà Giang (231.464 người, chiếm 31,9% dân số toàn tỉnh và 21,7% tổng số người H’Mông tại Việt Nam), Điện Biên (170.648 người, chiếm 34,8% dân số toàn tỉnh và 16,0% tổng số người H’Mông tại Việt Nam), Sơn La (157.253 người, chiếm 14,6% dân số toàn tỉnh và 14,7% tổng số người H’Mông tại Việt Nam), Lào Cai (146.147 người, chiếm 23,8% dân số toàn tỉnh và 13,7% tổng số người H’Mông tại Việt Nam), Lai Châu (83.324 người), Yên Bái (81.921 người), Cao Bằng (51.373 người), Nghệ An (28.992 người), Đăk Lăk (22.760 người), Đăk Nông (21.952 người), Bắc Kạn (17.470 người), Tuyên Quang (16.974 người), Thanh Hóa (14.799 người).
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người H’Mông ở Việt Nam có dân số 1.068.189 người, đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc ở Việt Nam, cư trú tại 62 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người H’Mông cư trú tập trung tại các tỉnh: Hà Giang (231.464 người, chiếm 31,9% dân số toàn tỉnh và 21,7% tổng số người H’Mông tại Việt Nam), Điện Biên (170.648 người, chiếm 34,8% dân số toàn tỉnh và 16,0% tổng số người H’Mông tại Việt Nam), Sơn La (157.253 người, chiếm 14,6% dân số toàn tỉnh và 14,7% tổng số người H’Mông tại Việt Nam), Lào Cai (146.147 người, chiếm 23,8% dân số toàn tỉnh và 13,7% tổng số người H’Mông tại Việt Nam), Lai Châu (83.324 người), Yên Bái (81.921 người), Cao Bằng (51.373 người), Nghệ An (28.992 người), Đăk Lăk (22.760 người), Đăk Nông (21.952 người), Bắc Kạn (17.470 người), Tuyên Quang (16.974 người), Thanh Hóa (14.799 người).
Trên
thực tế cho thấy các cư dân H'Mông ở Việt Nam vẫn có quan hệ với các cư dân đồng
tộc ở các nước khác, đặc biệt là những địa bàn sát biên giới giữa Việt Nam với
Trung Quốc và Lào.
Các tài liệu khoa học, cũng như các truyền thuyết đều cho biết rằng người H'Mông là tộc người di cư vào Việt Nam sớm nhất khoảng 300 năm và muộn nhất là 100 năm về trước. H'Mông là tên tự gọi có nghĩa là người (Môngz). Còn các dân tộc khác còn gọi dân tộc này với các tên Miêu, Mèo, Mẹo. Căn cứ vào đặc điểm về dân tộc học và ngôn ngữ học, người ta chia tộc H'Mông ra làm các hệ: H'Mông Trắng (Môngz Đơư), H'Mông Hoa (Môngz Lênhs), H'Mông Đỏ (Môngz Si), H'Mông Đen (Môngz Đuz), H'Mông Xanh (Môngz Dua), Na Miểu (Mèo nước). Trong đó, cũng có ý kiến cho rằng H'Mông Hoa và H'Mông Đỏ là một.
Tiếng H'Mông là một ngôn ngữ không có chữ viết. Năm 1961 phương án chữ H'Mông theo tự dạng Latin (cụ thể bộ chữ được xây dựng theo ngữ âm hệ H'Mông Lềnh Sa Pa-Lào Cai) có bổ sung thêm một số âm vị của các ngành H'Mông khác, gồm 59 phụ âm (có 3 âm vị phụ âm của hệ H'Mông Đơư và H'Mông Sua), 28 vần và 8 thanh. Vào thập niên 1970, phong trào học chữ H'Mông phát triển khá mạnh ở hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam, nơi có nhiều người H'Mông sinh sống. Nhưng đến nay với nhiều nguyên nhân khác nhau mà tình hình học chữ H'Mông đã không còn phát triển như trước kia nữa.
Các tài liệu khoa học, cũng như các truyền thuyết đều cho biết rằng người H'Mông là tộc người di cư vào Việt Nam sớm nhất khoảng 300 năm và muộn nhất là 100 năm về trước. H'Mông là tên tự gọi có nghĩa là người (Môngz). Còn các dân tộc khác còn gọi dân tộc này với các tên Miêu, Mèo, Mẹo. Căn cứ vào đặc điểm về dân tộc học và ngôn ngữ học, người ta chia tộc H'Mông ra làm các hệ: H'Mông Trắng (Môngz Đơư), H'Mông Hoa (Môngz Lênhs), H'Mông Đỏ (Môngz Si), H'Mông Đen (Môngz Đuz), H'Mông Xanh (Môngz Dua), Na Miểu (Mèo nước). Trong đó, cũng có ý kiến cho rằng H'Mông Hoa và H'Mông Đỏ là một.
Tiếng H'Mông là một ngôn ngữ không có chữ viết. Năm 1961 phương án chữ H'Mông theo tự dạng Latin (cụ thể bộ chữ được xây dựng theo ngữ âm hệ H'Mông Lềnh Sa Pa-Lào Cai) có bổ sung thêm một số âm vị của các ngành H'Mông khác, gồm 59 phụ âm (có 3 âm vị phụ âm của hệ H'Mông Đơư và H'Mông Sua), 28 vần và 8 thanh. Vào thập niên 1970, phong trào học chữ H'Mông phát triển khá mạnh ở hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam, nơi có nhiều người H'Mông sinh sống. Nhưng đến nay với nhiều nguyên nhân khác nhau mà tình hình học chữ H'Mông đã không còn phát triển như trước kia nữa.
Người
H"mông ở Mỹ.
Tại
Hoa Kỳ, nhiều người H'mông là những người tị nạn từ Lào cũng như ra đi sau chiến
tranh Việt Nam tới Mỹ. Bắt đầu vào năm 1976, những người H'mông tị nạn đầu tiên
đã tới Mỹ, chủ yếu từ các trại tị nạn nằm trên đất Thái Lan.
Ngày
nay, phần chủ yếu của người H'mông ở Mỹ (khoảng 270.000) sống ở California,
Minnesota và Wisconsin. Fresno, Minneapolis-St. Paul, Madison và Milwaukee có mật
độ tập trung cao của người H'mông.
Điều
tra dân số Mỹ năm 2000 cho thấy chỉ có 40% người H'mông trên 24 tuổi đã từng học
trung học. Khoảng 7% người H'mông có bằng cử nhân hoặc cao hơn. Tỷ lệ cao của
thất học là do nhiều người H'mông chủ yếu có nguồn gốc là nông dân, họ ít có cơ
hội tiếp thụ nền giáo dục tại Lào khi sinh sống trên núi đồi. Ngoài ra, khoảng
40% các gia đình H'mông nằm dưới mức nghèo khổ. Mặc dù họ vẫn là một trong số
những dân tộc châu Á nghèo khổ nhất tại Mỹ, rất nhiều trẻ em thế hệ hai đã chiếm
các vị trí cao trong nhiều trường học khi so sánh với các nhóm thiểu số thu nhập
thấp khác. Trẻ em Mỹ gốc H'mông sinh ra tại Mỹ thông thường có nhiều cơ hội tiếp
thu giáo dục hơn so với cha mẹ của chúng và vì thế có nhiều cơ hội kinh tế hơn
so với cha mẹ chúng có thể có được ở Lào. Mặc dù người H'mông thông thường có
xu hướng làm những công việc có thu nhập thấp, nhiều người trong số họ là rất
chuyên nghiệp.
Tại
nhiều thành phố lớn ở đó người Mỹ gốc H'mông sống và làm việc thì các bất hòa
đã diễn ra giữa người H'mông và các nhóm thiểu số khác. Người H'mông thông thường
là mục tiêu của sự phân biệt chủng tộc, chủ yếu là do sự cạnh tranh trong công
việc và bản chất của người H'mông như là những người phụ thuộc vào trợ cấp. Nhiều
kẻ ngược đãi họ bào chữa cho hành động của mình là do người H'mông đã lấy mất
công việc, trợ cấp và các dịch vụ khác của những người định cư lâu đời ở đó.
Mặc
dù nhiều gia đình H'mông nói bằng ngôn ngữ không phải là tiếng Anh tại nhà họ,
nhưng nhiều người Mỹ gốc H'mông đã nhanh chóng thích nghi với xã hội Mỹ và rất
nhiều người trẻ tuổi đã đánh mất các bản sắc văn hóa truyền thống của mình rất
nhanh. Vì điều này, cộng đồng H'mông đã thành lập hiệp hội và phương tiện thông
tin riêng để cổ vũ người H'mông giữ gìn văn hóa và ngôn ngữ của họ.
Văn
hóa ẩm thực.
Mèn
mén, chế biến từ ngô hạt đem xay nhỏ, phải xay bằng cối đá và xay hai lần mới
nhỏ mịn và khi đồ mới ngon. Đêm bột ngô vẩy nước vào đảo đều với độ ẩm vừa phải,
khi cầm nắm ngô bột không bị dính, cũng không bị bở ra là được. Tiếp đó cho vào
chõ đồ lần 1, đến khi hơi bốc lên thơm thì đổ ra mẹt vẩy thêm một ít nước rồi đảo
đều cho tơi ra, sau đó lại cho vào chõ đồ lần 2; khi có mùi thơm lừng bốc lên,
khi đó mèn mén đã chín, bưng ra chỗ cao ráo để ăn trong cả ngày.
Tục
cưới hỏi.
Người
con trai phải biết về sáo H'Mông, Khèn H'Mông, vào các đêm thổi trước cửa nhà
cô gái. Nếu điệu sáo hay điệu khèn thu hút được lòng cô gái thì cô gái sẽ đi ra
trò chuyện. Vào các ngày lễ hội để mong được người bạn gái để ý đến, người con
trai cũng thể hiện làn điệu nhạc để thu hút bạn gái.
Nếu
người bạn gái đồng ý thì hẹn bạn trai làm một thủ tục Bắt vợ. Theo tục bắt vợ của
người H'Mông, sau ba ngày bắt được vợ, người con trai phải cùng bố mẹ đẻ đem lễ
vật gồm thịt lợn, thịt gà, rượu sang nhà gái để tạ ơn và làm vía thành hôn đồng
ý cho hai người lấy nhau. Sau khi làm vía, người con trai phải cùng vợ ngủ lại
nhà gái một đêm rồi sáng mai mới được về sớm. Bắt được vợ rồi thì hai người có thể
về chung sống với nhau đến lúc nào có điều kiện kinh tế khá giả thì mới tổ chức
đám cưới, thậm chí có những đôi ở với nhau có con rồi cưới cũng chẳng sao.
Ngày
nay thủ tục này có phần thay đổi khác tiến bộ hơn, biến đổi giống người Kinh.
Người con gái tìm hiểu kỹ hơn, tự do lựa chọn người bạn đời.
hầu
như hiện tại tất cả dân tộc H'Mông đặc biệt là giới trẻ đều sử dụng chung ngôn
ngữ viết mông để giao tiếp trong nước cũng như nước ngoài để thống nhất ngôn ngữ
chung cho dân tộc H'Mông "hmoob".
theo tôi từ HMông hoạc HMoob đều là một còn chẻ từ hoob hoạc HMông ra thành nào là H,Mông, hay hờ mông là dành cho những người không phát được âm này hay vì một lý do nào đó không chịu phát âm theo chuẩn của no. Theo tôi âm này cách phát âm cũng khả đơn giản thôi. Đây là từ dùng âm môi mũi cùng một lúc thì mới phát âm này chuẩn được, nên tôi đề nghị không phân tích và thay đổi gì cả và đề nghị mọi người chịu khó luyện cho, cái gì cũng vậy khổ luyện thì mới thành tài mà.
Trả lờiXóa