Cây Khèn nói lên những tiếng thì thầm, réo rắt, trầm bổng gọi trăng, đón gió, gọi cô gái
có đôi mắt đa tình xinh đẹp vượt qua mùa xuân xanh, vượt đá xanh, trời xanh về
với mình. Gọi là "kéo vợ" hay vợ chạy theo thì cũng chẳng ai biết rõ,
chỉ có cô gái, chàng trai, đôi bàn tay "dính" vào nhau "qua năm
đồi, bảy suối" mới biết, rồi tình nguyện thả hồn vào tiếng khèn của chàng
trai đã bao đêm gọi bạn.
Tiếng khèn gọi bạn tình
Nghe kể ngày xửa, con gái người H'Mông
khi đi lấy chồng phải giỏi tay thêu thùa, may vá, ít nhất cũng biết dệt vải, se
lanh, may cho bố mẹ chồng, anh em nhà chồng những bộ quần áo trong ngày cưới của
mình. Còn người đàn ông H'Mông khi muốn trở thành người đàn ông thực thụ của cộng
đồng, thành người chồng chính thức của một cô sơn nữ xinh đẹp nào đấy, là cha của
những đứa con sau một mùa xuân "kéo vợ" thì ít nhất cũng phải biết
làm cho mình một cây khèn, dù biết rằng chàng trai kém cô gái tới vài ba hay cả
chục tuổi.
Tôi đã đi hàng trăm phiên chợ Tết trên
khắp vùng người H'Mông sinh sống, chợ nào chẳng có tiếng khèn nơi "đầu đường,
cuối chợ" mà réo rắt mời gọi bạn tình. Chợ nào, lễ hội nào chẳng có hàng
chục cô gái H'Mông vây quanh những chàng trai H'Mông vừa thổi khèn, vừa nhào lộn.
Để đường về say mèn vì rượu, vì tình mà đôi má đỏ ửng, mắt long lanh, căng chiếc
ô che cho chàng trai với cây khèn đã bóng khói bếp, bóng mồ hôi năm tháng.
Đi tìm hình hài của cây khèn.
Đã rất nhiều lần tự hẹn với mình, rồi lại
tự thất hứa với mình, đi tìm hình hài của cây khèn H'Mông, cây khèn đã mang âm
sắc của một vùng văn hoá. Vậy mà mãi đến hôm nay, tôi mới trở về với tiếng khèn
bằng hình hài chân chất của bầu gỗ, lóng trúc, lưỡi đồng, quấn vỏ đào rừng vàng
óng trong đôi tay người nghệ nhân già, nơi xóm núi. Nơi ấy là xóm Tả Cù Ván thuộc
xã Hố Quáng Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang.
Đi theo tiếng khèn mùa xuân, mùa "kéo
vợ", từ phố huyện Đồng Văn tôi quyết tâm đến xóm Tả Cù Ván, xã Hố Quáng
Phìn, muốn xuống tận nơi để được chứng kiến những nghệ nhân làm khèn, làm ra
cái cây tâm tình mang lời của gió ở nơi đỉnh gió này. Đây cũng là một ân huệ
ngàn đời của một dân tộc, chắt chiu những tinh hoa, để lại cho đời, cho nhân loại
một di sản văn hóa vừa là vật thể, vừa là phi vật thể. Cây khèn H'Mông, một nhạc
cụ không thể tách rời với đời sống văn hoá người H'Mông và cũng là sự kết tinh,
là sự thẩm thấu, sự giao truyền của bao ngàn đời để lại.
Qua gần một buổi sáng cuốc bộ, lên đèo,
xuống thung, ngồi thở bên vách đá, uống những giọt nước tinh túy được chắt ra từ
đá. Xế trưa, tôi tìm đến gia đình ông Mua Sính Pó, một lão khèn vùng đá mà được
nhân dân trong vùng gọi là "thần khèn". Một con người mà mấy chục năm
qua đã chuyên tâm truyền nghề và chế tác những cây khèn, những cây khèn mang cả
một nền văn hoá dân tộc H'Mông ở nơi ông. Năm nay ông Mua Sính Pó đã trên sáu
mươi tuổi, có gần bốn mươi năm làm nghề gọt cây, chắp gió, thành lời yêu, lời
nhớ.
Theo ông Pó: "Muốn có một cây khèn
mang đúng những âm thanh của người H'Mông bao đời nay thì phải chọn được thân gỗ
kim giao vừa ý, chọn được những gióng trúc vừa tầm và không thể thiếu tính kiên
nhẫn của người làm ra nó. Khèn của người H'Mông được làm hoàn toàn bằng những
kinh nghiệm cha truyền, con nối, áng chừng bầu gió khoét rộng dài bao nhiêu là
vừa đủ, áng chừng gióng trúc to nhỏ thế nào là đến tầm...".
Nói rồi ông Mua Sính Pó nhìn tôi cười,
tay ông với cây khèn mới làm xong treo trên vách đưa lên môi, ngón tay ông lần
lần đưa vào những khuyết gió để cây khèn thả vào không gian đá trầm ấm một âm
thanh đến mê hồn. Say... rất say... vai ông đặt xuống mặt đất, hai chân ông vuốt
lên trời đối xứng với cây khèn mà lóng gió vẫn cứ mở đều theo điệu chân ông đạp,
theo những ngón tay ông mở lóng hay đóng khuyết. Anh con trai ông ở đâu về thấy
bố đang biểu diễn khèn, anh cũng với cây khèn trên gác ngô, lau đầu bầu gió vào
áo, quệt ngang lưỡi đồng, lấy hơi và hai cây khèn "bố con" bắt đầu chờ
nhịp hay chọn nhịp.
Giữ gìn bản sắc văn hóa của người
Mông.
Chiều xuống nhanh hơn trên vùng đá, tôi
theo đường về huyện. Đứng trên "võng gió" nơi đỉnh dốc châm thuốc hút
cho đỡ rét, rồi ngoái lại nhìn xóm Tả Cù Ván trong sương, trong mây. Nơi ấy có
một trăm hai mươi tám nóc nhà, đằng sau xóm trên lưng chừng núi là một rừng
trúc chạy dài óng ánh khi hoàng hôn tím sẫm. Lời ông Mua Sính Pó lại trầm trầm
mà vang lên đâu đó: "Cái nghiệp làm khèn nó khác với cày nương đá, khác với
chăn nuôi dê bò, cũng khác với cạy đá xếp nương ngô, nương bí. Nếu không yêu,
không thích tiếng khèn từ nhỏ, không say cái lóng gió gọi người yêu, không say
những chợ phiên có bầu trời lộn ngược khi nhảy khèn chống vai xuống đất, giơ
chân lên trời thì không bao giờ làm được. Vẫn biết rằng, ít nhất trong đời, các
đứa con trai người H'Mông cũng một lần biết vuốt bầu gió, xoa lóng trúc, kiếm vỏ
đào rừng hong khói bếp để làm cho mình một cây khèn tìm vợ...".
"Sinh nghệ, tử nghệ, có giàu nghèo
gì thì tôi vẫn làm khèn", ông Pó bảo với tôi như thế. Và để có được cây
khèn ưng ý, ông đã phải bỏ ra mười ngày, mười đêm ngồi tỉ mẩn bên bếp lửa mà
nghe tiếng thở dài của vợ lúc đêm khuya.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét