Lễ hội Gầu Tào (M.A.L - L.S.C)

Con quay làm bằng gỗ cứng: đinh, lim, chò chỉ và có 2 loại quay, ở các làng H'mông phía Tây sông Hồng (Bát Xát, Sa Pa) các bạn trẻ thường dùng con quay đẽo tròn, phần trên gọt tròn, nhắm và có núm, phần dưới hơi nhọn, ngay đỉnh nhọn có đóng một chiếc đinh. Chiếc quay nặng từ 0,2 đến 0,5 kg. ở miền Đông sông Hồng, lại dùng quay to, nặng hơn, tùy sức lực và ý thích từng người. Ai có những con quay từ nửa cân (0,5kg) trở lên đều được mọi người trầm trồ thán phục, coi như loại siêu nặng. Con quay ở miền Đông phần trên phẳng, phần dưới hơi nhọn, dáng thô, nặng hơn quay miền Tây. Dây đánh quay thường được tết bằng sợi lanh, dài 1 sải, sải rưỡi tùy theo chiếc quay to hay nhỏ.

Đánh quay có 2 hình thức chủ yếu: thi quay tít và chọi quay. Đầu tiên các bạn trẻ thường thi quay tít. Một vòng tròn được vạch trên đất bằng cách vạch người đứng thi từ 5-7m, mọi người đứng dàn hàng ngang ở vạch thi đấu, khoảng cách vừa phải để khi vung tay khỏi va chạm vào nhau. Chủ trò hô lên một tiếng, những con quay lao vút vào vòng quay phát ra những tiếng kêu vo vo, vù vù quay tít, con quay nào quay lâu nhất sẽ được mọi người trầm trồ khen ngợi. Con nào nhảy chồm chồm vượt ra khỏi vòng tròn rồi đổ lăn chiêng ra là chưa đạt, chủ nhân của nó tiu nghỉu, có khi phải đẽo lại chiếc khác. Có nơi người chủ quay còn dùng dây quất vào cạnh tròn của con quay, tạo ra một lực tiếp tuyến để nuôi quay quay được tít lâu hơn. Loại quay tròn có núm, người ta có thể hất lên cho quay trong lòng bàn tay.

Trò chơi quay bao giờ cũng thu hút được nhiều người chơi, nhiều khán giả hâm mộ. Ai có con quay trước thì phải thả ra khoảng trống trước mặt để làm mồi, con quay mồi đang nhảy nhót, quay vù vù. Một người khác vung tay lên, một con quay từ trên bổ xuống giáng mạnh vào con quay mồi. Có con quay bị giáng mạnh còn bị vỡ toác. Tiếng xuýt xoa khen ngợi nổi lên. Nếu chọi không trúng, thì con quay chọi lại phải thay thế con mồi. ở Bắc Hà-Lào Cai, chọi quay được tiến hành ở ba bậc (mỗi bậc cách nhau 5m). Người thua cuộc ở bậc 1 sẽ làm mồi ở các bậc tiếp theo. Chọi quay ở từng bậc, đòi hỏi người chơi vừa phải nhìn cho tinh, liệng trúng đích, vừa phải khỏe để liệng quay ở độ nhất định xa.
Thi quay, chọi quay, tạo cho cánh tay thêm rắn chắc, con mắt thêm tinh nhanh, làm cơ sở để khi đến tuổi trưởng thành, luyện tập môn võ ném quả cân xa 15-25m vẫn trúng đích diệt kẻ thù.


Đám múa khèn thật là trịnh trọng, được coi như môn tài tử cao sang nhất. Mọi người quây quanh người múa, buông tay, nghiêng mình kính 120 cẩn chiêm ngưỡng những tài hoa xuất chúng. Người múa đi những đường lượn, đường vòng, nước đi, nước lùi, khi thì như con nai in trên thảm cỏ, khi thì như cơn gió mát lướt nhẹ qua rừng cây, khi thì như con công đứng chụm chân xòe cánh, lăn tròn, lộn nhào, quay tít ngón chân, chân vỗ hoặc tay vỗ chân kia... Kết thúc bài, người múa lại thổi bài mời mọc rồi người khác bước ra sân, bái chào, không để cho trang khèn bị đứt quãng. Người vừa biểu diễn xong, bước ra khỏi sân bao giờ cũng được đón những đôi chén rượu với một sự trọng vọng khâm phục đặc biệt.


Đám hát gầu plềnh, hát tình ca, đối đáp, trao duyên, hát vui hội hè thường có mặt những thanh niên trai gái đang độ thanh xuân. Họ hát đểthi thố tài nghệ, và cũng nhân thể tìm hiểu nhau. Những bài hát thường là sáng tác tức thì. Đám hát không thiếu những người đã định nơi chốn bởi vì đã được luật hội cho phép và cấm kỵ không được ghen tuông, ích kỷ; hơn nữa đám hát luôn có người kiểm soát nên ai có vô ý sắp lại gần nhau sẽ có ngay chiếc gậy trúc của người kiểm soát trỏ vào giữa nhắc luật, và hai người phải dãn cách. Song nhiều chiếc gậy thường mải xem thổi khèn hoặc lử đử lừ đừ với bầu rượu nên có quên nhiệm vụ là điều dễ hiểu. Trong đám hát, những người đã định nơi chốn thường lui tới bên những chiếc ống hát. Từ ống mai đầu này tới ống mai đầu kia cách khoảng 100-200m là một sợi tơ tằm vàng óng nối liền, mỗi ống bắc trên một cây cọc cao vừa tầm người đứng. Khi người đầu này hát thì người đầu kia áp tai lắng nghe, giọng hát truyền qua nguyên vẹn trên sợi dây. Những người chơi nhị thổi sáo bịt  sáo lưỡi đồng, gẩy đàn môi thì tùy thích nhập đám hoặc chơi riêng một mình. Trên khắp các triền núi, tiếng kèn lá bay bổng vang trời gọi mời nhau. Các cụ bà cũng kéo nhau ra hội móm mém kể chuyện này chuyện nọ hoặc chăm chút lời ănt iếng nói, bước đi đứng, nếp váy áo cho con cháu. Các cụ ông rạng rỡ mặt mày bên những mâm rượu và chủ trì cho những cuộc lễ một cách cung kính. Một ngày ba bữa ăn sắp cơm, nước đầy đủ. Xưa kia còn cóchum rượu cần to tướng, đặt ngay tại gốc cây nêu, vại to, vại nhỏ để trong những căn lều, những gốc cây, bụi cỏ có chiếc vò thì đựng rượu chua, chum thì rượu cân, có vại thì rượu nếp thơm, đều có cần, ai muốn uống bao nhiêu tùy thích (và không sợ bẩn vì nơi linh thiêng không ai dám làm bậy làm bẩn). Đêm đến, khách xa, người cao tuổi được mời về nhà gia chủ. Tại bãi hội, những đống lửa được đốt lên, mọi người tiếp tụccuộc vui. Ngày đầu tiên, sau khi làm lễ khai hội, nếu nhà thày mo ở gần thì mọi người kéo vào nhà thày làm lễ nhảy (đha thàng). Đám nhảy đồng thời cũng sẽ tiếp diễn cho đến hết hội. Những năm không có hội, mọi người vẫn kéo đến nhà thày mo cùng nhảy đồng (nhảy tập thể tốp nam hoặc tốp nữ).

Hình thức, động tác nhảy rất đơn giản, một tốp nam hoặc một tốp nữ, thường là thanh, thiếu niên, đứng thành một hàng ngang trước bàn thờ. Cuộc nhảy mở đầu do thày mo đánh chiêng. Chiêng đánh phía sau lưng tốp nhảy. Khi cả tốp nhảy đã đồng loạt run rẩy, thày tránh ra, cả tốp cùng nhảy lùi, rồi nhảy tiến theo 4 hướng. Tiến, lùi mãi đến lúc mệt, đối với nam, lần lượt quì lạy trước bàn thờ, lạy 3 lạy theo 3 hướng. Đối với nữ thì chạy ra ngoài hoặc ra phía bếp lò. Thông thường lúc đang nhảy, có thể vồ bắt một người cùng nhảy cho vui. Cá biệt có người khi đánh chiêng, không run lên được, cứ đứng trơ ra.
Thày mo sẽ phải ra tay bằng cách đệm quẻ bói dưới chân, đốt một thẻ giấy, lấy tro hòa nước, phun vào người, khi làm những động tác ấy, đều phải khấn theo bài cúng đến phương sách ấy, buộc người đó phải nhảy, và đôi khi không thể dừng được, thày phải khấn thì mới dừng. Đó là những người hay thích thách đố thày.

Không gian và ánh sáng của vở diễn được đầu tư nhằm đem lại đúng không khí của các nghi lễ hầu đồng xưa.

Nhảy đồng mang tính chất của sa man giáo, dường như  nghĩa, song thực chất ý nghĩa của nó là cầu mong sức khỏe, sinh sản, cầu mong mùa màng tốt tươi, cầu mong đất trời thuận hòa, cầu mong thần linh ma quái không gây ra những điều oan trắc. Nhảy đồng còn tựa như được thôi miên, hồn được lìa khỏi xác, khiến người được bay bổng vào cõi mơ.

Hết thời hạn hội, gia chủ làm lễ kết thúc, cây nêu được hạ xuống. Thày mo đốt thẻ giấy, hốt than cho vào gáo nước, vừa đi vừa cầu khấn. Sau mỗi đoạn khấn vái, thày lại hấp một ngụm nước phun ra xung quanh. Gia chủ cầm bầu rượu hạ từ trên cây nêu đi theo sau thầy mo, cũng hẩy rượu ra khắp nơi. Mảnh vải đỏ thì mang về treo trong nhà cầu mong hồng phúc đời đời. Trường hợp nếu là hội cầu phúc, ông chủ hội chọn một đôi trai gái, một đôi nam nữ đứng tuổi đông con và họ hàng rước nêu về gia chủ gác ở đằng sau nhà hoặc làm giát giường mong sớm có con. Nếu mở hội cầu mệnh thì rước cây nêu đến gác ở chỗ vách đá khô ráo.

M.A.L - L.S.C

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét