Khi có người chết, Gia đình
cử người đến báo thầy và xin thầy đến để làm ma. Người đi đón thầy
mang 3 nén hương, ba tờ giấy vàng (tiền vàng) đưa cho thầy, thầy thắp
lên bàn thờ thánh của thầy, đốt tiền vàng báo cho thánh biết có sự
kiện (nói địa điểm, làng, xã, huyện, tỉnh người mất) và xin thánh
cho đi làm và huy động binh lính của thánh cùng đi. Gồm hai thầy
chính và hai người giúp việc đi theo.Khi đi qua làng nào thì báo cáo
thổ công làng đó (vào thổ kỳ thắp hương) xin phép cho binh lính đi qua
, nếu gặp đình, chùa thì thắp hương báo cáo và xin chi viện quân để
cùng đi làm. Đến làng nơi người chết, đến báo cáo thổ công và xin
phép thổ công được làm.
Đến nhà, các con trai người
mất ra quỳ trước cổng đón thầy, thầy lấy sợi chỉ bằng giấy bản
(chuẩn bị sẵn), lăn tròn thành sợi dây buộc vào tóc người con trai,
Nghĩa là những người con này có tội, để xẩy ra cha, mẹ chết nên
trói vào, không được làm gì, chờ thầy xét xử. Sợi chỉ bằng giấy
này tự nó rơi rụng, nhưng ý nghĩa là trói buộc cho đến khi cởi tang
(thót háo), mới hết tội.
Nghi lễ này không cần mời
thiên (ngọc hoàng), không mời địa (thần đất), ông thầy có toàn quyền
thực hiên.
Việc đầu tiên thầy đến là
lập bàn thánh, đại bản doanh các thánh và binh lính mà thầy mang
theo. Lập xong thầy viết một số công văn, văn bản cần thiết xong rồi
làm. Đầu tiên là nghi thức đi lấy ngước tắm rửa cho người mất, mở
thanh la,con gái hoặc cháu gái, người đi trước, người đi sau cầm hai
sợi vải xô, trên có chiếc chậu đồng và chiếc khăn, khom lưng đi ra chỗ
có nước để lấy,các con cháu kéo theo, một thầy đi cùng làm thủ
tục. Lấy nước về con chau đi vòng quanh người mất một vòng rồi
đặt chậu ngước gần người mất, rồi lần lượt con cháu rửa mặt (làm
động tác tượng trưng) cho người mất.Thầy đọc họ tên từng người con,
cháu đến rửa mặt cho đến hết con, cháu mới thôi. Sau đó đến thủ tục
vào áo quan (nhập quan), tiếng Nùng gọi là (khảu shang).Trước khi vào
áo quan, con dâu, cháu dâu mỗi người có miếng vải dài khoảng rộng 1m,
dài 2m lần lượt đắp lên người mất, gọi là chăn, đắp cho người. Một
trong những thủ tục quan trọng nhất,là đưa người chết vào áo quan
xong,thầy làm thủ tục niêm phong áo quan lại,không cho quỷ dữ, bất cứ
ai được động đến.
Nghi lễ phát khăn tang, con
trai, cháu trai mặc quần áo tang đội mũ bện rơm làm bằng cây tre, hoặc
nứa, cuốn vải xô hoặc giấy bản, chống gậy cuốn bằng giấy bản
trắng. Con gái, con dâu mặc quần áo xô, và độị khăn trắng; các cháu
triết khăn tang là được. Lần lượt con, cháu đến bàn thờ đặt
dưới chân người chết, rót rượu mời người quá cố uồng, (tức mời
cơm). Thủ tục con, cháu đi vòng quanh người chết thể hiện con, cháu
kéo đến thăm, viếng.
Con gái có cây tiền (co sèn),
mang đến cúng tỏ lòng tạ ơn cha, mẹ, người có điều kiện thì mổ
lợn, mời thầy riêng đến làm lễ, người không có điều kiện thì có con
gà, miếng thịt và nhờ thầy nhà cúng giúp. Các cháu có quả núi và
nhờ thầy nhà làm. Riêng bên ngoại người mất (Pằng lăng), tức là bác,
hoặc cậu người mất phải có con ngựa (Tu mạ) mang đến cúng,lúc chuẩn
bị ra đồng, đem đốt, ý là để người mất cưỡi ngựa ra đi, con ngựa
này là con ngựa dẫn đường về âm (tu mạ sải lò).Thông gia mang đến cây
lạc (giống cây tiền) nhưng ngắn và nhỏ hơn để cúng, tiếng Nùng gọi
là (co lạc).
Lăn đường, người Nùng gọi là
(Tèm lát): Lúc ra ma,các con trai nằm ngửa dưới đất, nối tiếp nhau
tạo thành hàng dài để người khiêng quan tài qua trên, xong rồi làm
tiếp đến ba lần mới xong.
Nghi lễ tối quan trọng là lễ
hạ huyệt, thầy có bài cắt âm- dương, từ nay con, cháu không nằm mơ
thấy người quá cố, người quá cố không bao giờ trở lại làm phiền con
cháu. khoanh khu vực mộ, không có con gì dám động đến .
Xong việc, gia đình đặt con
gà, thủ lợn lên bàn thánh của thầy, thầy mời các binh lính đến để
khao quân vì đã hoàn thành công việc, đây là công đoạn cuối cùng của
đám ma. Khi về gia đình cử người gánh đồ lễ đến nhà thầy để đặt
bàn thánh của nhà thầy, đồ lễ tùy theo gia đình hảo tâm, thường là
nửa con lợn, gà, hoa quả ...để tạ ơn thầy. Sáng hôm sau thầy đến
(thầy chính) để mở mả (khay mò), con cháu làm nhà cho mộ. Tủ tục
này chỉ một con gà.Từ đó con, cháu đội khăn tang cho đến khi làm lễ
cởi tang (thót háo).
Vi Đức Hồi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét