Người
Mông ở Bắc Hà, Lào Cai.
1- Người H'mông trên thế giới.
Dân
tộc H'mông cư trú trên một địa bàn rộng ở châu Á, trên lãnh thổ 5 nước: Trung
Quốc, Việt Nam, Lào, Thái Lan và Myanma.
Ở
Trung Quốc, người H'mông có dân số đông nhất, khoảng 7.398.000 người, chủ yếu ở
tỉnh Quý Châu, gồm 4 nhóm: H'mông trắng, H'mông xanh, H'mông đen, H'mông hoa.
Ở
Lào, người H'mông có 315.000 người, chủ yếu từ Trung Quốc và Việt Nam di cư
sang, gồm người H'mông trắng, H'mông xanh.
Ở
Thái Lan, 152.000 người, gồm H'mông trắng, Hmông xanh, chủ yếu di cư từ Trung
Quốc, Lào sang.
Tại
Myanma có khoảng 25.000 người, di cư từ Trung Quốc và Lào tới.
Ở Việt
Nam, người H'mông là dân tộc thiểu số có số dân đông, sinh sống chủ yếu ở vùng
núi phía Bắc. Theo điều tra dân số năm 1999, ở nước có 787.604 người H'Mông,
chiếm 1% dân số cả nước. Trong những năm gần đây, có sự di chuyển của người H'mông
vào các tỉnh phía Nam, chủ yếu vào các tỉnh Tây Nguyên, bên cạnh xu hướng từ
Đông sang Tây (Lào) vẫn tiếp tục.
Ngoài
ra, hiện nay ở các nước phương Tây như Mỹ, Pháp, Úc… cũng có cộng đồng người H'mông
sinh sống, song chủ yếu là ở Mỹ (250.000 đến 300.000 người), di cư từ Lào sang
sau năm 1975. Ở Pháp có khoảng 11.400 người, ở Úc có khoảng 2.000 người, Canađa
có 600 người.
Dinh thự vua Mèo
Về lịch
sử, theo các nhà nghiên cứu, dân tộc H'mông là dân tộc thiểu số sống ở Trung Quốc
(người Trung Quốc gọi là Miêu). Trong lịch sử, từ thế kỷ thứ IV, ở Trung Quốc
đã hình thành Vương quốc H'Mông. Trong nhiều thế kỷ, họ phải liên tục đấu tranh
chống lại sức ép của người Hán. Đến thế kỷ X, Vương quốc H'mông tan rã.
Tuy
nhiên, người H'mông không chịu sự đồng hóa của người Hán. Do sự chèn ép của người
Hán, người H'mông di cư xuống phía Nam. Như vậy, người H'mông sống ở các nước
trên thế giới hiện nay đều có nguồn gốc từ Trung Quốc. Những mâu thuẫn giữa người
Hán và người H'mông ở Trung Quốc trong lịch sử dẫn tới sự di cư của người H'mông
rất nặng nề, cho đến nay vẫn tồn tại dưới dạng này, dạng khác …
2- Người H'mông ở Việt Nam
Hiện
nay, tuyệt đại đa số người H'mông ở Việt Nam cư trú ở vùng núi cao phía Bắc.
Người H'mông có mặt ở 2.384 bản, thuộc 538 xã, tập trung đông nhất ở Hà Giang,
Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Yên Bái, Cao Bằng, Nghệ An, Tuyên Quang, Thanh
Hóa, Bắc Thái, Hòa Bình, Lạng Sơn và một số tính khác. Trong lịch sử, người H'mông
có xu hướng di cư không thích nghi được với hoàn cảnh. Hướng di cư truyền thống của
người H'mông ở Việt Nam là từ Đông sang Tây, bám theo rừng. Từ năm 1990 đến nay
thêm hướng di cư mới, từ miền núi phía Bắc vào Tây Nguyên và một số tỉnh phía
Nam (hướng Bắc-Nam).
Người
H'mông ở Việt Nam, cũng như người H'mông ở Lào, Thái Lan, Myanma đều có nguồn gốc
từ Trung Quốc di cư sang.
Theo
các học giả Việt Nam, người H'mông di cư ở Việt Nam có 3 đợt: đợt sớm nhất là
vào thế kỷ XVII; lần 2 vào những năm 1769-1820; lần 3 vào thời điểm cuộc khởi
nghĩa Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Quốc thất bại.
Một
học giả Trung Quốc cho rằng, lịch sử di cư của người H'mông (Miêu) vào Việt Nam
có 4 đợt, từ giữa thế kỷ XVII đến sau chiến tranh Nha phiến ở Trung Quốc. Nói
như vậy không có nghĩa là cuộc dịch chuyển của người H'mông vào Việt Nam hay một
số quốc gia đến nay đã hết. Một trong những thuộc tính của người H'mông là dịch
chuyển, khi họ không đủ sức ứng phó với hoàn cảnh.
Quá
trình dịch chuyển của người H'mông rất phức tạp, sự di cư tự do của người H'mông
vào các tính Tây Nguyên (có cả các dân tộc khác, như người Nùng,
người Thái, người Dao…) diễn ra do nhiều nguyên nhân. Do có sự chuyển đổi cơ chế
kinh tế (giao đất đến các hộ gia đình, có sự đòi đất tổ tiên, thiếu đất canh
tác …), đất canh tác xấu, rừng bị tàn phá nhiều… Chiến tranh biên giới 1979
cũng có tác động nhất định. Bên cạnh đó, vấn đề tôn giáo kết hợp với sự lôi kéo
của các thế lực thù địch cũng dẫn đến di chuyển cư. Tuy nhiên, sự di cư của người
H'mông còn có những yếu tố lịch sử và truyền thống khác.
Người
H'mông cư trú trên địa bàn rộng, nên ngay trong cộng đồng của họ đã có những
cách ứng xử rất đa dạng, thể hiện sự thích nghi của người H'Mông, đặc biệt là thông qua hệ thống canh tác. Đối
với những vùng cao như Mèo Vạc, Đồng Văn (Hà Giang), cách thích nghi của họ chủ
yếu là trồng ngô trong các hốc đá và món ưa thích là mèn mén (ngô xay). Nhưng ở
Lào Cai, họ lại có những cánh đồng lúa nước khá rộng và những thửa ruộng bậc
thang rất đẹp.
3- Nét đặc trưng của xã hội người H'mông
a)
Thiết chế dòng họ
Tính
đến nay người H'mông có khoảng 20 dòng họ. Cấu kết dòng họ của người H'mông có
đặc điểm sau:
- Cấu
kết rộng: Theo người H'Mông, những người có cùng một họ đều là anh em, dù người
đó cư trú ở đâu, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia.
- Cấu
kết hẹp: Những người có cùng huyết thống theo dọng họ cha. Tuy nhiên, mối quan
hệ dòng họ của người H'mông dựa vào rất nhiều tiêu chí. Đầu tiên là quan hệ huyết
thống và sau đó là tập quán và nghi lễ giống nhau. Những người có cùng một ma
(cách thức cúng bái như nhau), được coi là người cùng họ. Người H'mông có một
trong những nghi lễ không thể thiếu được là làm nhụ đa (ma bò, lễ vật hiến tế
là con bò). Mỗi dòng họ có cách thức cúng, vị trí để con bò, cách bày cúng (có
họ bày 1 phần, có họ bày 5 phần …, theo nguyên tắc số lẻ). Theo cách thức của
người H'mông, người ta giải thích số lẻ là số của ma, số để cúng. Khi hai người
H'mông gặp nhau, người ta không cần hỏi tổ tiên của anh là ai, chỉ cần hỏi anh
cúng ma bò bày như thế nào, bày mấy phần. Nếu giống nhau, biết ngay họ là anh
em ruột.
Một
cách nhận biết khác trong quan hệ thân thuộc là qua cúng ma buồng (cúng để cầu
mong cho đàn gia súc). Buồng là nơi ở của người phụ nữ, nhưng người phụ nữ cũng
là người chuyên chăm lo cho chăn nuôi. Khi cúng ma buồng, cầu mong cho đàn gia
súc phát triển thì mỗi dòng họ cũng có cách cúng khác nhau.
Mỗi
dòng họ có một kiểu, nghi thức cúng ma riêng. Cách đặt người chết trong nhà phụ
thuộc vào dòng họ. Có dòng họ đặt dọc nhà nhưng sát bàn thờ, nhưng có dòng họ lại
đặt ngang. Khâm niệm của các dòng họ cũng khác nhau. Có dòng họ khâm niệm tại
nhà, có dòng họ khiêng người chết ra nghĩa trang rồi mới khâm niệm. Những nét
riêng của người H'mông đã tạo nên tính cố kết của những người có quan hệ huyết
thống với nhau. Người cùng dòng họ người H'mông thì được chết ở bên nhau. Bên cạnh
đó là những kiêng cữ về thức ăn và các loại thực phẩm.
b) Tổ
chức của dòng họ
-
Vai trò lớn nhất là người trưởng họ, dân tộc H'mông gọi là cái gốc. Trưởng họ
là người am hiểu các quy định, các bài cúng của dòng họ mình, thành thạo phong
tục và cách ứng xử. Trưởng họ là người có uy tín, có hiểu biết về phong tục của
dòng họ. Trưởng họ có nơi bầu, có nơi kế thừa, chưa truyền con nối, không có
khuôn mẫu, tuỳ từng dòng họ vận dụng khác nhau. Vai trò của người trưởng họ chi
phối hầu hết các lĩnh vực của người H'mông (trong sản xuất, tang ma, cưới xin,
di chuyển). Công tác tư tưởng muốn đưa chủ trương, đường lối, chính sách…, muốn
giải quyết các vấn đề khúc mắc, tranh chấp dứt điểm phải chú ý đến điều này.
Trưởng ban tuyên truyền, vận động mà là trưởng họ thì rất tốt. Khi giải quyết
các vấn đề giữa các dòng họ, không có gì tốt hơn là các ông trưởng họ dàn xếp với
nhau.
- Đối
với dân tộc H'mông, sau trưởng họ, người có tiếng nói quan trọng thứ hai trong
dòng họ là bà cô. Bà cô có thể thay đổi các nghi thức cúng bái của dòng họ. Khi
vận động xây dựng nếp sống văn hóa mới trong ma chay, cưới xin…, chúng ta cần
quan tâm đến vai trò của bà cô trong dòng họ.
-
Trong xã hội của người H'mông, vai trò của thầy cúng cũng rất lớn. Khi tiếp xúc
với xã hội người H'mông, không thể không tính đến vai trò của thầy cúng, và
không nên chỉ hiểu đó là vấn đề mê tín, mà cần đặt trong đặc điểm kết cấu xã hội
của họ.
Có
thể nói, cái cố kết chủ yếu trong xã hội người H'mông là dòng họ. Nó chi phối
các hoạt động của người H'mông, kể cả trong phát triển sản xuất, tổ chức không
gian cư trú (nơi ở)… Đối với người H'mông trưởng họ, bà cô, thầy cúng là những
người có uy tín và có vai trò rất quan trọng.
Đặc biệt quần áo của người H'Mông chủ yếu may bằng vải tự dệt, đậm đà
tính cách tộc người trong tạo hình và trang trí với kỹ thuật đa dạng. Chỉ với 4
màu chủ đạo xanh, đỏ, trắng, vàng của chỉ tơ tằm mà họa tiết của trang phục đã
tỏa ra muôn sắc màu, tạo cảm giác trầm ấm. Trang phục của phụ nữ H'Mông có họa
tiết hoa văn đẹp từ khăn đội đầu đến xà cạp quấn chân. Trang phục phụ nữ Mông
có họa tiết tập trung ở cổ áo, nẹp áo, thắt lưng, bồ giáo phía trước. Phụ nữ
H'Mông Hoa trang trí họa tiết ở trang phục phong phú hơn, ở cả khăn đội đầu, cổ
áo, nẹp áo, thắt lưng, bồ giáo, thân váy, xà cạp, kỹ thuật thêu hoa văn của người
H'Mông rất phức tạp và vì thế, nó thể hiện sự tinh tế của người phụ nữ H'Mông.
Cách bố cục và họa tiết trên trang phục của người H'Mông còn thể hiện sức sống,
bản lĩnh của người H'Mông trước thiên nhiên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét