Bài 1
Tìm lại anh em, nhận lại bạn bè
Thánh địa Mỹ Sơn, Đà Nẵng, được xây dựng từ thế kỷ 4 và tiếp tục
được tu bổ cho đến thế kỷ 14.
Chăm là một trong 54 nhóm chủng tộc bất khả phân của dân tộc Việt
Nam. Dân số người Chăm hiện nay khoảng 100.000 người, trong đó hơn 2/3 định cư
tại Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết và Bình Tuy ; số còn lại sinh sống tại Châu
Đốc, Tây Ninh và Sài Gòn.
Cũng nên biết, trong thực tế, có khoảng 400.000 người Chăm sinh sống
tại khắp nơi trên thế giới, đông nhất là tại Kampuchia (270.000 người), kế đến
mới tới Việt Nam (100.000 người), sau là Thái Lan (15.000 người) và cuối cùng là
Liên Bang Mã Lai, năm 1979 đã tiếp nhận khoảng 10.000 người Chăm đến từ
Kampuchia. Hải ngoại có khoảng 200 người Việt gốc Chăm (hơn 50 gia đình), đa số
định cư tại Hoa Kỳ.
Tài liệu nói về nhóm dân cư này tuy có nhiều nhưng cũng rất thiếu.
Đa số các tài liệu viết về các sinh hoạt có tính văn hóa và xã hội trong khi phần
lịch sử và sinh hoạt chính trị của nhóm dân cư này hoàn toàn thiếu vắng, nếu có
chăng thì nội dung cũng bị bóp méo để phù hợp với nhu cầu tuyên truyền của các
chế độ đương quyền. Chính vì thế mỗi khi đề cập tới cộng đồng người Chăm, người
Việt thường có một nhận thức rất mơ hồ, chỉ biết đại khái đó là một sắc tộc thiểu
số ở miền Trung và Châu Đốc có nước da ngăm đen, phong tục tập quán, tín ngưỡng
và văn hóa khác với người Kinh. Trầm trọng hơn, phần lớn những người lãnh đạo đất
nước cũng không nắm rõ nguồn gốc những cộng đồng chủng tộc đã góp phần tạo
thành dân tộc Việt Nam, do đó khó có thể xây dựng một chính sách dân tộc phù hợp
với ước vọng của từng cộng đồng. Chính vì thế nội dung loạt bài viết về người
Chăm này nhằm khai thông bế tắc đó. Nhận lại anh em, tìm lại bạn bè là chặng đường
cần thiết trước khi cùng nhau xây dựng một tương lai chung.
Người Chăm và các danh xưng
Chăm là tên một nhóm dân cư, trước kia là thần dân vương quốc
Chiêm Thành (Campa, Champa, hay Chăm Pa) cũ, đã có mặt từ lâu đời tại miền
Trung trước khi người Kinh đến đây lập nghiệp.
Trước khi đi vào chi tiết, tưởng cũng nên phân biệt người Chăm và
người Chămpa. Chăm là nhóm dân cư gốc Nam Đảo (malayo-polynésien) sinh sống
trên những vùng đất thấp dọc duyên hải miền Trung, Chămpa là toàn thể các nhóm
dân cư thuộc vương quốc Chiêm Thành cũ gồm cả người Chăm đồng bằng lẫn người
Thượng (gốc Nam Đảo hoặc Môn Khmer), sinh sống rải rác trên các vùng rừng núi
phía Tây dãy Trường Sơn, hay Tây Nguyên.
Hoa Champa, còn gọi la hoa Đại hay bông Sứ
Champa là tên một loài hoa màu trắng hồng nhạt, hay trắng vàng nhạt,
có hương thơm ngào ngạt có thể tìm thấy tại khắp nơi trên duyên hải miền Trung.
Người Việt gọi là hoa sứ, tên khoa học là Michelia Champaca Linn. Không biết
người Champa đã chọn loài hoa sứ này đặt tên cho xứ sở mình từ hồi nào, nhưng
chữ Champa đã được tìm thấy trên một bia ký có từ thế kỷ thứ 6 tại Mỹ Sơn, viết
bằng chữ Phạn (sanscrit). Trước đó, trong bộ Geographica năm 150 sau công
nguyên, Claudius Ptolémée (90-168), nhà địa lý gốc Hy Lạp và là sứ giả của
hoàng đế La Mã Marc-Aurèle Antonin tại Alexandrie (Ai Cập), đã có lần nói tới một
xứ tên Zamba trên vùng Viễn Đông. Sách Tân Đường thư, do Âu Dương Tu và Tổng Kỳ
biên soạn thế kỷ 10, phiên âm là Chiêm Bà khi nói về Hoàn Vương Quốc (vương quốc
Lâm Ấp cũ). Về sau Champa được người Việt biết qua tên phiên âm Hoa ngữ là Chiêm
Thành (Tchan-tcheng).
Trước kia người Việt gọi cộng đồng người Chăm là Chiêm, Chàm, Hời…
Những danh xưng này được đọc theo cách viết của người Trung Hoa, hay theo cách
phát âm của người miền Trung, do đó không phản ánh trung thực danh xưng chính
xác của người Chăm hiện nay.
- Chiêm là tên gọi những cư dân sinh sống trên lãnh thổ Chiêm
Thành ; danh xưng Chiêm thỉnh thoảng vẫn được nhắc nhở trong sử sách và tài liệu
nghiên cứu, ngoài dân gian ít ai nói tới.
- Chàm là cách đọc trại đi từ chữ Champa (Chàm Bà) ; danh xưng
Chàm hiện còn rất thông dụng trong dân gian, một vài địa danh còn giữ chữ Chàm
kèm theo như Cù Lao Chàm tại Quảng Nam, Tháp Chàm tại Phan Rang, quận Phan Lý
Chàm, xã Ma Lâm Chàm tại Bình Thuận... Trong nước, những nhà dân tộc học đã
thay chữ Chàm bằng danh xưng Chăm từ lâu ; điều này đã làm hài lòng cộng đồng
người Chăm tại cả Thuận Hải lẫn Châu Đốc, vì là cách gọi đúng nhất theo lối
phát âm từ chữ Chăm-pa.
- Danh xưng Hời rất ít được nhắc đến, người chỉ thấy chữ này xuất
hiện một vài lần trong tập thơ Điêu
Tàn, năm 1937, của Chế Lan Viên.
Hời là cách đọc trại đi từ chữ Hroi của Pháp (H’roi hay Hờ Roi), tên của một bộ lạc sơn cước sinh sống trên
vùng rừng núi phía Tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Người Hroi
thật ra cũng là người Chămpa, vì trước kia là thần dân của vương quốc Chiêm
Thành cũ di tản lên Tây Nguyên tránh loạn rồi định cư luôn tại đây, họ vẫn còn
giữ ngôn ngữ và một số phong tục tập quán của người Chăm đồng bằng trong những
sinh hoạt thường nhật.
Ngoài ra còn phải kể thêm những nhóm Bahnar Chăm, Bru-Vân Kiều,
Kaho, Raglai, Rhadé, Djarai, Stiêng, Churu v.v., tất cả đều là thần dân của
vương quốc Chiêm Thành cũ di tản lên cao nguyên trong những giai đoạn loạn lạc
rồi ở luôn tại đây.
Trên khắp cao nguyên, những nhóm người mới hòa nhập và pha trộn với
các nhóm người cũ tạo thành những sắc dân hỗn hợp mang hai dòng máu Chăm-Thượng
trong những thời điểm khác nhau.
Người Chăm lai Thượng gọi là Chăm Pal, nhưng người Việt ít biết đến
tên này. Vì không có truyền thống đặt tên cho từng nhóm người, dân chúng gốc
Kinh gọi chung tất cả những cư dân sinh sống trên miền núi phía Tây là người
Hroi, sau đó biến âm thành người Hời.
Chữ Hời còn mang một nội dung xấu, đó là những nhóm man di chuyên
đi cướp bóc, vì trong quá khứ người Hroi đã nhiều lần tiến công vào các làng xã
người Kinh cướp bóc lương thực, trong những giai đoạn khó khăn, dưới thời các
chúa Nguyễn (từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19). Sau này người Chăm tại Thuận Hải gọi
những cư dân gốc Chăm sinh sống tại các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định
là Chăm Hoi hay Chăm Hroi. Sử sách Việt Nam thời Nguyễn gọi chung là Mọi Đá
Vách.
Ngoài ra cũng có một số người Chăm lai Việt gọi là Chăm Yuôn (Yuôn
hay Yun có nghĩa là người Việt). Người Việt gọi là Kinh Cựu, nhưng danh xưng
này rất ít người biết đến vì người Kinh Cựu luôn tự nhận mình là người Kinh.
Cũng nên biết những binh sĩ hay tội đồ gốc Kinh, bị đày ra vùng biên địa giáp
ranh với Chiêm Thành, đã lập gia đình với những phụ nữ Chăm (mà họ cho là người
Kinh cổ xưa), từ đó mới sinh ra chữ Kinh Cựu.
Về ngôn ngữ, người Chăm được nhiều nhà nhân chủng học xếp vào họ
Nam Đảo (Malayo Polynésien), nghĩa là có nguồn gốc xuất phát từ các hải đảo
phía Nam vùng biển Đông Nam Á. Điều này có thể đúng khi đối chiếu văn minh, văn
hóa của người Chăm với văn minh, văn hóa của các dân tộc cùng hệ ngôn ngữ tại
Đông Nam Á vào thời tạo dựng. Nhưng qua những khám phá khảo cổ gần đây, văn
minh và văn hóa của người Chăm tại Việt Nam không hoàn toàn do ngoại nhập mà có
sự pha trộn yếu tố văn minh và văn hóa của những nhóm cư dân bản địa có mặt từ
trước.
Trong thực tế không có bộ tộc nguyên thủy nào có tên Chăm. Chăm chỉ
là tên gọi của nhiều nhóm dân cư sau này chọn sinh sống trên lãnh thổ của vương
quốc Champa, hay Chiêm Thành cũ, gọi chung là người Chămpa, chứ không phải tên
riêng của một nhóm chủng tộc. Sau này cộng đồng người Chăm đồng bằng chấp nhận
danh xưng Chăm, và đồng hóa nguồn gốc Nam Đảo của mình với nền văn minh và văn
hóa Chiêm Thành cũ, để phân biệt với các nhóm Chămpa khác xuất phát từ nhiều
nguồn gốc ngôn ngữ và chủng tộc khác nhau.
Có thể nói vương quốc Chiêm Thành xưa kia là một liên bang đa chủng
và đa văn hóa.
Nền văn hóa cổ Champa
Trưng bày các tác phẩm điêu khắc nghệ thuật trong Viện Bảo tàng Đà Nẵng
(http://yeudanang.org/bao-tang-nghe-thuat-cham-pa-thang-tram-qua-thoi-gian)
Sau khi đã thống lãnh toàn bộ các khu vực có dân cư sinh sống trên
vùng duyên hải miền Trung, từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ 8, các nhóm người hải đảo
gốc Malayo Polynésien bắt đầu thiết đặt nền tảng vật chất để trị vì lâu dài :
xây dựng kinh thành, phổ biến lối sống định canh và tổ chức xã hội theo kiểu
lãnh chúa. Vì trình độ văn hóa không cao nhưng giỏi chinh chiến, những nhóm này
một mặt chỉ lưu giữ một phần của nền văn minh hấp thụ qua các đạo sĩ và thương
nhân Ấn Độ (chữ Phạn và văn hóa Ấn Độ) đến đây trao đổi hàng hóa hay tạm trú, mặt
khác vẫn duy trì một số tập tục, văn hóa bản địa cổ truyền của mình. Qua những
di tích và văn hóa còn lại, người ta nhận thấy tất cả đều có sự pha trộn giữa yếu
tố bản địa và Ấn Độ. Tuy vậy, với thời gian, văn hóa Ấn Độ dần dần trở thành yếu
tố độc tôn, lấn át văn hóa bản địa ở phía Nam và Trung Hoa ở phía Bắc.
Nhưng các đạo sĩ và thương gia Ấn Độ chỉ truyền bá văn minh, văn
hóa, tổ chức xã hội, kỹ thuật hàng hải, buôn bán và canh tác nông nghiệp của họ
cho giới vương quyền và các lãnh chúa địa phương mà thôi, quần chúng dân gian
không được chiếu cố tới. Sự phân biệt này có nhiều lý do, thứ nhất là quần
chúng dân gian không có trình độ văn hóa cao, thứ hai là họ không phải là thành
phần có quyền quyết định, thứ ba là sự tuân thủ các điều luật của đạo Bà La
Môn, đẳng cấp này không thể giao tiếp với đẳng cấp kia. Và qua đó, những đạo sĩ
Bà La Môn dần dần được các lãnh chúa trọng vọng và giữ những vai trò cao trong
triều chính để giúp họ cai trị hữu hiệu và lâu bền.
Luật Manu của đạo Bà La Môn (Brahmanism) phân chia xã hội thành bốn
đẳng cấp (castes). Đứng đầu là Brahman, tức giới đạo sĩ (phần lớn là người Ấn Độ),
được cho là sinh ra từ miệng của Brahma (Phạm Thiên), nắm quyền văn hóa tư tưởng
và học thuật. Thứ hai là Ksatriya (Lý Đế Lợi), tức đẳng cấp vua chúa, quí tộc,
chiến sĩ (phần lớn là người Chăm gốc Nam Đảo), được sinh ra từ hai cánh tay của
Brahma nên nắm quyền chính trị và quân sự. Thứ ba là Vaisya (Phệ Xá), tức giới
thương gia và phú nông (đa số là người Chăm giàu có và người Thượng gốc Nam Đảo),
được sinh ra từ hai đùi của Brahma nên có quyền làm kinh tế và xây dựng. Thứ tư
là Sudra (Thủ Đà), tức đẳng cấp thợ thủ công, bần dân (đa số là các sắc dân miền
núi và tù binh), được sinh từ hai bàn chân của Brahma chỉ để bị sai khiến và
làm nô dịch.
Tuy vậy, trong giai đoạn đầu, do chịu ảnh hưởng của nền văn hóa
Trung Hoa và Phật giáo phái Đại Thừa, không thấy có sự phân chia đẳng cấp xã hội
trong những bia ký tìm được trên lãnh thổ Bắc Chiêm Thành. Ngược lại trên lãnh
thổ Nam Chiêm Thành, đẳng cấp Sudra vẫn tiếp tục tồn tại cho tới thế kỷ 19.
Ngày nay đẳng cấp Brahman chỉ còn thấy trong các dịp tế lễ của giáo dân đạo Bà
La Môn (các thầy Paseh, Tapah) và đạo Bani mà thôi (các thầy Char, Po Adhya, Po
Bac), nhưng đã biến dạng rất nhiều so với nguyên thủy.
Thầy Char trong lễ hội Katê
Người Chăm theo đạo Bà La Môn được gọi là
Chăm Jăt, tức người Chăm chính thống. Đạo Bà La Môn trở thành tôn giáo chính
trong giai đoạn đầu, từ thế kỷ 3 (theo bia Võ Cảnh ở Nha Trang). Tuy gọi là tôn
giáo chính nhưng chỉ giới vương tôn quí tộc mới có quyền hành lễ và dự lễ mà
thôi, quần chúng dân gian hoàn toàn bị cấm. Đạo Bà La Môn lúc ban đầu phát triển
mạnh tại miền Nam Chiêm Thành rồi phát triển ra miền Bắc từ thế kỷ thứ 4, dưới
triều vua Bhadravarman I (Fan-houta hay Phạm Hồ Đạt), người sáng lập ra triều đại
Gangaraja (sông Gange, Ấn Độ). Đạo Bà Là Môn giữ vai trò độc tôn trong các triều
chính cho đến thế kỷ 10, sau đó nhường vai trò lại cho đạo Phật Tiểu Thừa
(Thevada). Dưới triều vua Indravarman II (thế kỷ 9), pháp danh
Paramabuddhaloka, đạo Phật và đạo Bà La Môn cùng nhau phát triển, nhiều tu viện
và chùa được xây dựng tại Đồng Dương thờ Buddha và thần Shiva.
Phật giáo Tiểu Thừa tuy được du nhập cùng
lúc với đạo Bà La Môn nhưng không phát triển mạnh vì không thừa nhận tính cực
đoan của giai cấp cầm quyền đương thời, do đó chỉ lưu hành trong giới dân gian.
Phật giáo tại Champa có hai phái : phái Arya Sammitinikaya (Tiểu Thừa) và phái
Sarva Stivadanikaya (Đại Thừa), đa số Phật tử Chăm trong giai đoạn đầu theo phái
Tiểu Thừa. Miền Nam Chiêm Thành không có dấu vết gì về Phật giáo Đại Thừa ; ngược
lại tại miền Bắc, do ảnh hưởng Trung Hoa, Phật giáo Đại Thừa do các tu sĩ Trung
Hoa mang vào phát triển mạnh từ thế kỷ thứ 6 đến thứ 9, nhất là trong giới dân
gian sinh sống tại châu thổ sông Hồng và sông Mã (Cửu Chân, Nhật Nam), sau đó
thì mất hẳn.
Ngôn ngữ của người Chăm cũng rất khó xác định.
Nói người Chăm có một ngôn ngữ đặc thù là không đúng. Thổ dân bản địa lúc ban đầu
có lẽ đã trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ cổ Mã Lai, kế là thổ ngữ Nam Đảo. Về
sau một số dân cư từ phía Nam tràn lên miền Bắc và miền núi lập nghiệp góp phần
pha trộn ngữ âm Môn Khmer vào tiếng địa phương. Rồi những đợt di dân từ ngoài
biển (Java, Sumatra), những dân tộc phương Bắc (Văn Lang, Trung Hoa) và những nền
văn minh khác (Ấn Độ, Ả Rập) liên tiếp gia nhập vào vùng đất này, ngôn ngữ của
người Chămpa đã biến đổi, phân hóa thành nhiều hệ khác nhau (nhất là các sắc
dân miền núi), mặc dầu vậy yếu tố Nam Đảo vẫn là mạnh nhất, ảnh hưởng và chi phối
đến lối phát âm chính của người Chăm.
Tại miền Bắc, do ảnh hưởng của Trung Hoa
những bậc vương tôn có thể đã sử dụng chữ Hán trong các văn thư trao đổi với
các quan lại nhà Hán tại Giao Chỉ cho tới năm 192, lúc đó còn là lãnh thổ thuộc
nhà Hán (quận Tượng Lâm). Nhưng đến đời con cháu Khu Liên, người sáng lập vương
quốc Lâm Ấp đầu thế kỷ thứ 3, nhiều phái bộ được cử sang Giao Chỉ triều cống,
các văn thư đều viết bằng chữ Hồ (tức chữ Phạn cổ). Điều này chứng tỏ người Ấn
Độ (tu sĩ và thương nhân) đã vào Lâm Ấp truyền giáo và giao thương trước thế kỷ
thứ 2 và đã phổ biến chữ viết. Những địa danh và tên các vương triều từ thế kỷ
thứ 3 trở đi đều mang tên Ấn Độ, kể cả tên nước (Campapura là tên một địa danh
tại miền bắc Ấn Độ). Chữ Phạn trở thành chữ quốc ngữ của vương quốc Champa cổ từ
thế kỷ 2. Những bia ký tìm được đều được khắc bằng chữ sanskrit, tức chữ Phạn cổ.
Bia ký chữ Phạn (Chăm cổ) ở Po Klaung Garai - Wikimedia Commons
Lâu dần chữ Phạn cổ có nhiều thay đổi. Người Chăm pha trộn và biến
cải chữ Phạn cổ thành tiếng "Chăm mới", nhất là từ sau thế kỷ 15 khi
vương quốc miền Bắc bị tan rã, dân chúng Nam Chiêm Thành chỉ sử dụng chữ
"Chăm mới" và còn áp dụng cho đến ngày nay. Chữ "Chăm mới"
có nhiều trùng hợp với các loại chữ viết của các dân tộc hải đảo Đông Nam Á, nhất
là với ngôn ngữ Malaysia và Indonesia.
Đạo Hồi được người Ả Rập truyền bá vào Đông Nam Á từ thế kỷ thứ 7,
mạnh nhất là trong các quần đảo Sumatra, Java, bán đảo Mã Lai và các hải đảo nhỏ
phía đông nam Philippines. Người "Java" (cách gọi chung những nhóm
dân cư hải đảo thời đó) hấp thụ giáo lý đạo Hồi qua các giáo sĩ và thương nhân Ả
Rập trốn chạy những cuộc thánh chiến đẫm máu đang xảy ra quanh vùng biển Địa
Trung Hải và Trung Đông từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 9. Yếu tố hấp dẫn dân cư
Nam Đảo theo đạo Hồi là tính (thiện) tuyệt đối của nó : không tôn thờ hình tượng
và xây dựng đền đài như đạo Bà La Môn.
Dân cư hải đảo, đa số là thành phần ngư dân, đã theo đạo rất đông
vì không muốn tham gia xây dựng đến đài tôn thờ các vị thần Ba La Môn giáo nữa.
Khi các nhóm "hải tặc Java" (cách gọi những ngư phủ không hành nghề
đánh cá mà chỉ chuyên đi cướp bóc ngoài khơi Biển Đông) đổ bộ lên miền Trung, họ
đã mang theo một số sinh hoạt của nền văn minh và văn hóa Hồi giáo đến với các
nhóm dân cư bản địa. Đó chỉ là những hiện tượng rời rạc vì đa số dân cướp biển
không có trình độ văn hóa cao nên không thể vừa cướp bóc vừa truyền đạo.
Nhiều thuyền buôn Ả Rập từ các hải cảng Basra, Siraf và Oman đã đến
buôn bán với Chiêm Thành trong các thế kỷ 7 và 9, nhưng không được đón tiếp nồng
hậu vì ngôn ngữ bất đồng, do đó không thể truyền đạo cho dân chúng địa phương.
Hơn nữa thương nhân Ả Rập không ở lại như người Ấn Độ vì sợ cướp bóc, thêm vào
đó họ cũng không thích hợp với khí hậu nhiệt đới gió mùa của miền Trung. Đạo Hồi
được truyền bá vào vương quốc Chiêm Thành qua trung gian các nhà ngoại giao và
thương nhân Java và Sumatra ngoài khơi Biển Đông. Vì lẽ đó, đạo Hồi tại Chiêm
Thành có nhiều khác biệt so với đạo Hồi chính thống.
Mốc thời gian đạo Hồi được du nhập vào Chiêm Thành là thế kỷ 10.
Dưới thời vua Indravarman III (918-959), tể tướng Po Klun Pilih Rajadvara nhận
cho một số gia đình hoàng tộc Rahdar Ahmed Abu Kamil, Naqib Amr, Ali (trốn chạy
chính sách cai trị khắc nghiệt của những tiểu vương Java) vào tị nạn. Những người
này đã nhân dịp truyền bá luôn giáo lý đạo Hồi cho các gia đình hoàng gia Chiêm
Thành.
Trong các thế kỷ sau mới có thêm các giáo sĩ, thương gia và giáo
dân Hồi giáo Java từ Biển Đông vào giảng dạy giáo lý, lần này cho quần chúng.
Qua tư cách và lối sống đạo của các người Hồi giáo Java, giáo lý đạo Hồi chinh
phục nhanh chóng đức tin của quần chúng Chiêm Thành, thật ra họ cũng không muốn
bị tước hết tài nguyên nhân vật lực để xây dựng những đền đài Bà La Môn giáo nữa.
Nhiều người Chăm đã được thương nhân và giáo sĩ Java đưa sang Ả Rập học đạo. Đạo
Hồi được đông đảo người theo và trở thành tôn giáo thứ hai của vương quốc Chiêm
Thành, sau đạo Bà La Môn, từ thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ 15. Chữ Ả Rập được du nhập
vào vương quốc Chiêm Thành cùng với đạo Hồi, nhưng không lấn át được chữ Phạn.
Vị vua theo đạo Hồi được biết đến nhiều nhất là Po Alah (Po Ovlah,
Po Âu Loah hay Po Allah), trị vì 36 năm (1000-1036) tại Sri Bini (Qui Nhơn). Po
Alah học đạo ở La Mecque 37 năm rồi mới về nước trị vì. Dưới triều vua Po Alah,
đạo Bà La Môn và đạo Hồi phát triển rất mạnh, nhiều đền thờ Shiva và nhà thờ Hồi
giáo được xây dựng tại Amavarati (Mỹ Sơn-Quảng Nam). Đạo Hồi rất thịnh hành tại
Thuận Hải (các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay), nhưng cũng biến cải dần
theo thời gian, theo phong tục và lối sống của người địa phương mất tính chính
thống của đạo Hồi Ả Rập. Đạo Hồi tại Thuận Hải có tên là đạo Bani (Hồi giáo biến
cải), người Chăm theo đạo Bani được gọi là Chăm Bani để phân biệt với người
Chăm theo đạo Hồi chính thống, gọi là Chăm Islam. 3/5 người Chăm tại Thuận Hải
theo đạo Bà La Môn, 2/5 còn lại theo đạo Bani. Tuy vậy tại Thuận Hải cũng có ba
làng Chăm Islam (2 ở Văn Lâm và 1 ở Phước Nhơn, huyện Ninh Phước, chiếm tỷ lệ
30% so với người theo đạo Bani).
Về sau, khi bị áp bức và chiến tranh đe dọa, một mảng lớn giáo dân
theo đạo Bà La Môn và đạo Hồi chạy sang Chân Lạp và Java sinh sống. Khi định cư
tại Chân Lạp, người Chăm bị nhóm Hồi giáo Mã Lai đồng hóa, cộng đồng Chăm và Mã
Lai tại đây được gọi chung là Khmer Islam. Tại Chân Lạp sau một thời gian xung
đột chính trị và tôn giáo với người Khmer (theo đạo Bà La Môn và Phật giáo Tiểu
Thừa), một số người Chăm đã chạy về Châu Đốc lập nghiệp, đa số là thành phần tu
sĩ, trí thức, nông dân và thương nhân. Người Chăm tại đây học kinh Coran viết bằng
chữ Ả Rập. Được những thương nhân Ả Rập di cư truyền cho cách thức buôn bán,
người Khmer Islam và Chăm Islam rất giỏi buôn bán.
Tại miền Trung, các thầy Char (Po Char) của người Chăm Bani thay mặt
giáo dân giữ đạo. Tín đồ Bani chỉ giữ đạo vào mùa chay (ramadan) mà thôi, không
nhất thiết phải cầu kinh 5 lần một ngày hay ăn chay trường. Ngược lại người
Chăm theo đạo Hồi tại Châu Đốc giữ đạo đúng theo luật của Hồi giáo chính thống
: tín đồ đều hướng về La Mecque 5 lần trong ngày để cầu nguyện, họ rất kiêng cử
trong việc ăn uống và rất khắt khe trong việc lập gia đình.
Truyền thuyết về các dòng vương tôn
Theo truyền thuyết, các dòng vương tôn cầm quyền tại Chiêm Thành đều
xuất thân từ hai dòng họ lớn. Mỗi dòng họ lấy một vật tổ (totem) làm biểu tượng.
Dòng vương tôn ở phía Nam lấy cây Cau (Kramukavansa) làm biểu tượng, những nhà
nghiên cứu gọi là chi bộ, bộ tộc hay thị tộc Cau. Dòng vương tôn ở phía Bắc lấy
cây Dừa (Narikelavansa) làm biểu hiệu, gọi là chi bộ, bộ tộc hay thị tộc Dừa.
Chỉ những truyền nhân xuất thân từ hai dòng họ này mới được công nhận lên ngôi
vua, tức phải thuộc đẳng cấp Brahman và Ksatriya. Những người dân thường, cho
dù có tài giỏi hay anh dũng đến đâu cũng không được công nhận là vua nếu không
chứng minh có liên hệ huyết thống đến hai dòng họ này, tức phải do một phụ nữ
mang dòng máu vương tôn sinh ra.
Trong lịch sử Chiêm Thành, nhiều người xuất thân là dân thường phải
biện hộ có thần linh yểm trợ để lên ngôi vua như Phạm Văn (nguyên là một người
chăn dê gốc Hoa), Lưu Kỳ Tông (một người Việt muốn lên làm vua nhưng không được
dân chúng tuân phục) hay nhiều vị tướng khác sau khi đã hạ đối thủ chính trị.
Thật ra người dân thường khó giữ được ngôi cao trong xã hội Chiêm
Thành vì không bao giờ có cơ hội, hơn nữa những người thuộc giai cấp vương tôn,
đặc biệt là giới vương tôn nữ phái, chỉ lập gia đình với những dòng vương tôn với
nhau, do đó không có những cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối và ít có những
cuộc hôn nhân dị chủng, dị giáo. Phụ nữ quí tộc Chăm chỉ chọn chồng cùng đẳng cấp,
đa số cung phi của các vua Chiêm Thành đều xuất thân từ các gia đình quí tộc.
Khi một vua Champa cưới một người vợ ngoại quốc, ông ta chỉ có thể lập gia đình
với con gái của những vua chúa thuộc các vương triều khác, chứ không thể lấy một
người thường dân.
Xã hội Chiêm Thành tuy theo chế độ mẫu hệ nhưng lại phụ quyền.
Trong gia đình, người đàn bà, gọi là Mẹ cả, đảm nhiệm vai trò chọn người kế thừa,
bàn thảo tương lai con cái, chọn chồng cho con gái, đứng ra cưới hỏi, gìn giữ
bàn thờ tổ tiên, giữ gìn hương hỏa. Ngoài xã hội, người đàn ông có toàn quyền
quyết định việc canh tác, giao thiệp và buôn bán, nhưng chỉ người con trai hay
đàn ông nào được sinh ra bởi một người mẹ thuộc dòng quí tộc mới được chấp nhận
làm vua hay giữ vai trò cao trong triều đình.
Tài liệu cổ và truyền thuyết Chăm cho biết truyền nhân của những
dòng họ vị vua cai trị vương quốc Champa là hai vị nữ thần được sinh ra bởi nữ
thần Sakti Bhagavati, vợ của Shiva : Visitrasaga cho các vua phía Nam và Uroja
cho các vua phía Bắc. Chỉ những người mang dòng máu từ những phụ nữ này mới được
giữ những địa vị cao và nắm giữ vai trò lãnh đạo, con cháu của họ có thể là những
người sinh sống tại đồng bằng hay trên miền núi.
Hình tượng Linga (bộ phận sinh dục tượng trưng cho sức mạnh của
phái nam, biểu tượng của khả năng tái tạo) tượng trưng cho thần Shiva (nam
tính) hiện thân qua nữ thần Uroja. Hình tượng Yoni (cơ quan sinh sản của phái nữ,
biểu tượng của khả năng dưỡng dục) tượng trưng cho nữ thần Bhagavati (nữ tính)
hiện thân qua nữ thần Visitrasaga. Uroja còn được gọi là thần Núi, Visitrasaga
là thần Biển. Tượng Uroja được xây dựng trên các triền núi ở phía Bắc, tượng nữ
thần Bhagavati được tôn thờ nhiều trên những vùng bình nguyên phía Nam, cạnh
các bờ biển. [Vị thần bảo vệ vương quốc Nam Chiêm Thành là nữ thần Yan Po Nagar
(Bà Mẹ Đất Nước hay Thiên Y Thánh Mẫu)]. Chính những phân chia dòng tộc Nam và
Bắc này mới nảy sinh ra huyền thoại về các bộ tộc Cau và Dừa.
Biểu tượng Linga-Yoni trong văn hóa Champa
Về bộ tộc Cau, theo truyền thuyết, vào thời xa xưa một vị vua cai
trị phương Nam một hôm thấy bên cạnh cung đình có một cây cau trổ một buồng
trái thật lớn và thật đẹp. Đến ngày trổ hoa, buồng cau không nở, nhà vua thắc mắc
liền sai một gia nhân trẻ tuổi trèo lên hái xuống xem sao. Gia nhân mang xuống
dâng lên vua. Vua lấy gươm báu chẻ mo cau ra thì thấy một em bé mặt mũi hồng
hào đẹp đẽ. Nhà vua rất vui mừng, nhận làm con nuôi và đặt tên là Radja Po
Klong, tức hoàng tử Po Klong (Po Klău). Mo cau bọc hoàng tử được dùng làm mộc đỡ
của hoàng gia và mũi nhọn của mo cau được biến thành gươm báu của nhà vua. Mộc
đỡ và gươm báu sau này trở thành biểu tượng cho uy quyền của các vị vua Chiêm
Thành phía Nam.
Hoàng tử Po Klong không chịu bú sữa của người thường mà chỉ bú sữa
của một con bò tơ ngũ sắc. Đó cũng là lý do giải thích tại sao người Chăm ở
phía Nam sau này từ chối giết và ăn thịt bò. Hoàng tử Po Klong càng lớn lên
càng đẹp và khỏe mạnh. Nhà vua sau đó gả con gái và cho kế nghiệp. Khi lên
ngôi, Po Klong cho xây một cung thành tuyệt mỹ trải rộng trên bảy ngọn đồi, đặt
tên là Băl.
Băl sau này là thủ đô của các tiểu vương quốc Champa theo tiếng
"Chăm mới", như Băl Cău ở Phan Rang, Băl Canar ở Phan Rí (thôn Tịnh Mỹ)
của bộ tộc Cau. Chuyện bò ngũ sắc là dựa theo truyền thuyết Bò Thần của đạo Bà
La Môn bên Ấn Độ, ý muốn nói bò là một vị thần, dân chúng phải tôn thờ không được
ăn thịt hay sử dụng phó sản của bò để tỏ lòng tôn kính thần linh.
Về bộ tộc Dừa, các dòng vương tôn phương Bắc cũng dựa theo truyền
thuyết trên để tạo sự huyền bí về dòng dõi vương quyền của mình, nhưng đổi buồng
cau thành buồng dừa và mo cau thành mo dừa. Theo lời kể lại, một vị hoàng tử được
sinh ra từ một mo dừa, làm con nuôi một vị vua, lấy một cô công chúa và sau đó
được tôn lên làm vua. Không rõ vị vua này tên gì, các nhà nghiên cứu Chăm học
và khảo cổ chưa tìm ra sử tích.
Thật ra, các dòng vương tôn phía Bắc, vì chịu ảnh hưởng muộn màng
nền văn minh Ấn Độ, phải tìm trong kho tàng dân gian một câu chuyện huyền bí đề
cao dòng tộc vương quyền của mình để tỏ ra ngang hàng với các dòng vương tôn
phía Nam. Tuy nhiên, do chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa lúc ban đầu,
thay vì phải thờ vật tổ (cây Cau hay Bò Thần) như người phía Nam, người Chăm
phía Bắc đề cao cây Dừa như một biểu tượng huyền bí của uy quyền - như người
Hoa đề cao con rồng hay con phượng. Hơn nữa, vật tổ của người Chăm phương Bắc
không mang ý nghĩa tôn giáo mà chỉ thuần túy là một biểu tượng. Tượng mà người
Chăm miền Bắc tôn thờ là Buddha, Shiva và các vị thần Ấn Độ khác. Một vị vua
làm được nhiều tốt cho dân chúng, khi chết đi được dân chúng tạc tượng và lập đền
thờ tôn kính như một vị Phật. Tên vị vua quá cố thường được kết hợp với tên thần
Isvara (tức Shiva), do đó tên sau cùng của các vị vua quá cố thường có thêm chữ
"vara" (như Bradresavara, Sambhudresavara) để thần thánh hóa ngôi vị
của mình, vua là do thần sai xuống cai trị dân gian.
Qua sự phân chia này, trong suốt dòng lịch sử của vương quốc cổ
Champa, các bia ký ghi lại rất nhiều tranh chấp giữa hai bộ tộc về quyền lãnh đạo,
không bộ tộc nào chịu nhường bộ tộc nào. Bộ tộc Dừa bị coi là bộ tộc bình dân
(không tinh khiết) thường bị các dòng vương tôn bộ tộc Cau (tự nhận là truyền
nhân chính thống) khinh thường. Tuy nhiên vì quyền lợi của đất nước, nhiều lúc
hai bộ tộc này đã biết kết hợp lại với nhau thành một để đối phó với kẻ thù
chung.
Nguyễn Văn Huy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét