PHỤ LỤC
Cộng đồng người Chăm tại Kampuchia
Cộng đồng người Chăm tại Kampuchia hiện nay (230,000 người)
đông gấp hai lần cộng đồng người Chăm tại Việt Nam (115,000 người). Sự đông đảo
này không phải tình cờ. Vì ở sát cạnh nhau, Kampuchia là vùng đất dung thân của
những gia đình người Chăm trốn chạy những cuộc nội chiến và chiến tranh xảy ra
tại Chiêm Thành cũ. Nhóm Chăm Java. Cộng đồng người Chăm có mặt đông đảo trên
lãnh thổ Kampuchia từ sau ngày thành Ðồ Bàn (Vijaya) thất thủ năm 1471. Hàng
trăm gia đình Chăm, sinh sống dọc vùng duyên hải Bình Trị Thiên, chạy lên Tây
Nguyên lánh nạn, một số đã ở lại và sống lẫn với các sắc tộc Thượng đã có từ
trước, một số khác vượt thảo nguyên Kontum sang Chân Lạp định cư và trở thành
những dân cư Khmer gốc Chăm. Ðợt tị nạn đông nhất có ghi rõ số lượng xảy ra vào
năm 1692, khi quân của Minh vương Nguyễn Phúc Chu chiếm đóng Khánh Hòa
(Kauthara).
Sử liệu Khmer cho biết có khoảng 5,000 gia đình người Chăm,
do những vương tôn dẫn đầu, đã băng rừng vượt núi đến Chân Lạp xin tị nạn. Vua
Khmer Jaya Chetta III chấp thuận bảo vệ và cho định cư tại Udong (đế đô cũ). Những
người này đều được đối xử tử tế. Với thời gian, một số di chuyển đến những địa
phương khác quanh đế đô khai phá đất đai và trồng trọt. Sau 1835, có thêm nhiều
đợt di dân Chăm khác đến. Những người này không chấp nhận chính sách cai trị hà
khắc của vua Minh Mạng, nhất là từ khi quyền tự trị tại trấn Thuận Thành
(Panduranga) bị xóa bỏ. Dân số Chăm định cư tại Chân Lạp ngày càng tăng lên, đa
số được đưa đến các tỉnh Pretviha (phía tây bắc) và các tỉnh Kongpong Cham,
Prayveng, Svayrieng, Kandang và Takeo (phía tây nam) định cư. Một số khác tình
nguyện sang Thái Lan định cư tại các tỉnh Ubon, Ratchathani và Sisakhet.Thật ra
người Khmer và người Chăm không xa lạ gì nhau. Lúc tiểu vương quốc Panduranga
còn hùng mạnh, sự giao hảo giữa người Chăm và người Khmer đã rất khắng khít,
dân cư hai vương quốc này đã thiết lập nhiều quan hệ sui gia thân thiết. Nhiều
vị vua tại Panduranga có vợ là người Khmer. Nhiều vị vua Chân Lạp đã từng sinh
trưởng tại vương quốc Nam Chiêm Thành, như Jayavarman III, và cũng có nhiều vị
vương Chăm được hoàng triều Khmer nuôi nấng, như Suryavaravarman. Người Khmer gọi
chung cộng đồng di dân này là Chăm Java. Tại sao Chăm Java? Theo những sử liệu
Khmer, người Java (Chà Và) đã đến định cư tại Kampuchia từ thế kỷ 14.
Thật ra Java là hai nhóm người khác nhau: Người Mã Lai và
người Java. Vì không nắm vững địa lý và phong tục tập quán của hai nhóm này,
dân chúng Khmer gọi chung là Java. Người Java từ các đảo Bornéo, Sumatra,
Minang Kabau... đến Chân Lạp từ đầu thế kỷ 16; người Mã Lai đến từ các lãnh địa
Singapore, Trengganu, Thái Lan... để trốn tránh chiến tranh, đói kém hay sự trù
dập của các chính quyền địa phương. Ða số những người tị nạn này là đàn ông, đi
trên những thuyền nhỏ đổ bộ các vùng bờ biển phía đông nam, rồi di chuyển dần
vào sâu trong nội địa và định cư tại các tỉnh Prayveng, Takeo, Kandang, Kampot,
Kompong Chnang, Kompong Spư. Thời gian sau đó, những nam nhân Java di cư này lập
gia đình với những phụ nữ Khmer, gọi là Java Kur. (Kur theo tiếng Chăm là
Khmer). Vì theo đạo Hồi chính thống (Sunnite), nhóm này sống tách biệt với người
Khmer chính gốc, đa số theo Phật Giáo. Nhưng từ khi tiếp xúc được với những
nhóm Chăm di cư có mặt tại chỗ, vì cùng ngôn ngữ, phong tục và tôn giáo, cả hai
nhóm dân gốc Nam Ðảo ly hương này kết hợp lại với nhau để thành nhóm Chăm Java.
Người Chăm và các vương triều Khmer. Sự xuất hiện của nhóm Chăm Java xảy ra đúng
vào lúc hoàng triều Chân Lạp có nhiều biến loạn.
Từ 1516 đến 1525, hai tiểu vương Paramaraja II (Cau Bana
Cand hay Ang Chan) và Sri Jettha (Stec Kan hay Nay Kan) tranh quyền lẫn nhau.
Ðược sự hỗ trợ của nhóm Chăm Java, Paramaraja II đuổi được Sri Jettha sang Xiêm
La. Từ sau ngày đó nhóm di dân hỗn hợp này đảm nhiệm nhiều vai trò quan trọng
trong nội chính Chân Lạp, nhiều người được phong tới chức thượng thư (Samtec
Cau Hva). Năm 1594, quân Xiêm tiến chiếm đế đô Longvek, cướp đi nhiều tài sản rồi
rút về. Vua Paramaraja IV (Chetta I) cử hai lãnh tụ Chăm Java, Po Rat và
Laksmana, sang Chiêm Thành cầu cứu. Vì đang bận chống lại chúa Nguyễn tại Phú
Yên, vua Po Klong Halau (gốc Khmer) đã không tiếp đãi trọng hậu hai lãnh tụ
này. Cảm thấy bị nhục và lợi dụng lúc đế đô Panran (Phan Rang) vắng chủ, cả hai
tháo gỡ nhiều khẩu đại bác (mua của người Bồ Ðào Nha) và bắt theo một số phụ nữ
Chăm mang về Chân Lạp. Trong thời gian đó, năm 1595, con của Sri Jettha tên Ram
de Joen Brai (Prah Rama) đã cùng một người Tây Ban Nha tên Blas Ruiz, một người
Bồ Ðào Nha tên Diego Veloso và một người Hòa Lan chiếm, trốn chạy qua Lào. Joen
Brai xưng hiệu Ram I, dời đô về Srei Santhor.
Vừa từ Chiêm Thành trở về và hay tin đảo chánh, hai vị tướng
Chăm Java đành ủng hộ tân vương. Ram I liền ra lệnh cho Ukena Tejo, một tướng
Khmer, và hai vị tướng Chăm Java kia sang đánh Chiêm Thành nhưng bị quân Ðại Việt
lúc đó đã làm chủ đất Phú Yên đánh bại. Trong lúc đó, tại Chân Lạp, Ram I bị
người Tây Ban Nha ám sát năm 1596. Hay tin này, Ukena Tejo cùng Po Rat và
Laksmana về chiếm lại đế đô, sát hại rất nhiều người Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha và
tôn hoàng tử Cau Bana Nur con của Ram I lên ngôi, hiệu Ram II, nhưng bị hoàng tử
Cau Bana Tan (Ponhea Tan, con của Paramaraja IV) được người phương Tây và vương
quốc Lào ủng hộ, trở về Longvek chiếm lại ngôi báu năm 1597, xưng hiệu
Paramaraja V. Ba vị tướng xin thần phục và được giao bảo vệ đế đô. Laksmana còn
được cử làm đô đốc Bộ Thủy Vận đặc trách về quan thuế và giao dịch quốc tế.
Nhưng chính sách bài phương Tây một cách trắng trợn vì lý do tôn giáo của ba vị
tướng ngày càng bị nhiều quần thần thân phương Tây chống đối. Ukena Tejo bị phe
phản loạn xử tử, Po Rat bị Diego Veloso đâm chết.
Còn lại một mình, năm 1599, Laksmana kêu gọi dân Khmer và
Chăm Java nổi loạn, chiếm đế đô Srei Santhor, giết tất cả người phương Tây rồi
rút về Thbuang Khmum thành lập một tiểu vương quốc riêng tên Ponhea Lu. Tại đây
Laksmana bị một tân vương khác tên Paramaraja VI (Cau Bana An hay Ponhea An)
đánh bại, phải chạy qua Chiêm Thành xin tị nạn nhưng bị vua Po Klong Halau bắt
giết vì tội cướp người và vũ khí vài năm trước đó. Tuy bị mất những địa vị cao
trong triều đình, người Chăm vẫn được cậy nhờ mỗi khi vương quyền Khmer lâm
nguy. Năm 1603, với sự trợ lực của nhóm Chăm Java, hoàng tử Cau Bana Nom
(Ponhea Nom) tranh chấp với Paramaraja VII (Ponhea To hay Sri Suryobarm) nhưng
không thành. Năm 1621, Ponhea Nu lên ngôi, hiệu Jaya Chetta II, tuyển rất nhiều
người Chăm vào đoàn quân viễn chinh sang Attopeu (Lào) tìm vàng. Năm 1630, Ang
Non I lên ngôi, nhưng đến năm 1636 phải nhờ người Chăm bảo vệ và chấp nhận cho
người Chăm có một lãnh thổ riêng tại Ponhea Lu (Thbuang Khmum hay Kompong
Cham), cạnh thủ đô Udong.
Trong thời gian này đạo Hồi phát triển mạnh tại Chân Lạp. Sự
cuồng tín và lòng dũng cảm của những tín đồ Hồi giáo được nhiều vương tôn Khmer
cậy nhờ mỗi khi có biến. Năm 1642, Cau Bana Cand (Ram Cul hay Nặc Ông Chân) nhờ
nhóm Chăm Java giúp lật đổ Ang Non I và lên ngôi, hiệu Ramadhipatih I (Nặc Ông
Chân) và phong một phụ nữ Chăm tên Nan Hah làm hoàng hậu, hiệu Anak Mnan Kapah
Pau. Nhà vua theo đạo Hồi (tên thánh là Ibrahim) và áp dụng triệt để giáo lý Hồi
Giáo trong đời sống. Chính sách này đã làm dân chúng Khmer bất bình, một phong
trào bảo vệ Phật Giáo chống lại Hồi Giáo nổi lên khắp nơi. Chống không lại, con
cháu các vị vua Khmer cũ chạy sang Ðàng Trong cầu cứu. Năm 1658 chúa Hiền xua
3,000 quân tiến chiếm Mỗi Xuy (Biên Hòa), bắt Ramadhipatih I về giam tại Quảng
Bình, đưa Batom Racha (Nặc Ông Nộn hay Ang Sur) lên ngôi, hiệu Paramaraja VIII
(1659-1674) và năm 1659 đuổi được nhóm Hồi Giáo chạy sang Xiêm La, trong số này
có rất nhiều gia đình vương tôn Khmer. Cộng đồng người Chăm Hồi Giáo còn lại chạy
về Nokor Vat (tỉnh Svayrieng) cạnh biên giới tây-nam Việt Nam ẩn náu, một số
khác ở lại phục tùng vị vua mới và được cho giữ những chức vị cao trong triều
đình. Hồi giáo mất dần ảnh hưởng trong đời sống chính trị và xã hội tại Chân Lạp.
Nhưng cũng kể từ đó cộng đồng người Chăm Hồi giáo chống lại
bất cứ triều đình Khmer nào thân Việt Nam hay thân Phật giáo. Năm 1672, hoàng tử
Sri Jaya Chetta (Ang Chey hay Nặc Ông Ðài), cháu Ramadhipatih I, giết cha vợ là
vua Paramaraja VIII lên ngôi, hiệu Padumaraja II, và nhờ Xiêm La chống lại quân
Việt. Vị tân vương mời hoàng hậu gốc Chăm, vợ của vua Ramadhipatih I, từ Battambang
về Udong làm thái hậu, nhưng bà này từ chối và trốn về Thbaung Khmum nhờ đồng
hương giành lại ngôi báu. Padumaraja II bị ám sát chết, Udong bị chiếm đóng và
hoàng hậu cũ lên ngôi nhưng chỉ tồn tại được 5 tháng. Các con của Ramadhipatih
I đã vận động dân chúng Khmer lật đổ bà hoàng thái hậu và giành lại quyền lãnh
đạo nhưng anh em lại tranh chấp lẫn nhau. Thommo Racha (Nặc Ông Thu) nhờ Xiêm
La và nhóm Chăm Java giúp; Ang Non (Nặc Ông Nộn) chạy sang Ðàng Trong cầu cứu.
Năm 1674, chúa Nguyễn sai Nguyễn Dương Lâm và Nguyễn Ðình Phái đánh chiếm thành
Udong. Ramadhipatih I chạy trốn vào rừng và mất tích. Con trưởng là Nặc Ông Thu
đầu hàng nhưng được chúa Nguyễn phong Ông Thu làm chánh vương cai trị Lục Chân
Lạp, đóng đô tại Udong (Long Úc hay Nam Vang), Nặc Ông Nộn được phong làm phó
vương cai trị Thủy Chân Lạp (miền Nam Việt Nam), đóng đô tại Prei Nokor (Sài
Gòn).
Năm 1691, sau khi Nguyễn Hữu Kính đánh chiếm lãnh thổ
Panduranga, giết Po Saut (Bà Tranh) vì đã dám chống cự lại Minh vương Nguyễn
Phúc Chu, một lãnh tụ Chăm tên Po Chonchanh, đạo Bà Ni (Hồi giáo cải tiến), dẫn
5,000 người băng cao nguyên Di Linh sang Chân Lạp tị nạn, tất cả được đưa đến
Thbaung Khnum (Kompong Cham) lập nghiệp. Trong hai thế kỷ 17 và 18, nội bộ triều
đình Khmer luôn có loạn lạc, quân Xiêm La và quân Ðàng Trong liên tục sang can
thiệp để đưa một vị vua thân mình lên ngôi. Trong khi đó, tất cả các vị vương
Khmer đều nhờ các nhóm Chăm tại Thbuang Khmum và Chroy Chanvar giúp sức. Năm
1782, nhân dịp triều đình Khmer đang rối loạn, một người Chăm tên Duôn Ser chiếm
Udong và Chroy Chanvar rồi xưng vương. Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên tị nạn và nhờ
Mạc Thiên Tứ xin chúa Nguyễn giúp, quân Chăm bị đánh bại, Duôn Ser bị giết. Dưới
thời Nặc Tôn, cộng đồng người Chăm tại Chân Lạp bị sát hại tập thể, một số chạy
qua Xiêm La ẩn lánh, một số khác chạy vào xứ Ðàng Trong xin tị nạn và được định
cư tại Moat Chruk (Châu Ðốc).
Trong thời gian này binh lực nhà Nguyễn thường tiến qua
Chân Lạp bảo vệ các triều vương Khmer thân Việt, nhóm Chăm Java cũng nhờ đó được
người Khmer để yên. Thế lực của nhóm này lên cao khi năm 1795, một lãnh tụ
Chăm, hoàng tử Thị Hảo (Chay Brey hay Po Ceng Sei Brei) và binh lính từ
Panduranga qua tị nạn. Năm 1817, một hoàng thân Chăm (không rõ tên) được cử làm
tổng trấn tỉnh Kongpong Cham. Năm 1834, con vị tổng trấn này được Minh Mạng
phong tước tổng trấn thay mặt triều đình Huế cai trị Kompong Cham, nhưng chính
sách bảo hộ này bị người Khmer thân Xiêm La chống đối. Năm 1854 sau khi nhờ
quân Xiêm La đuổi quân Việt ra khỏi lãnh thổ, vua Ang Duong (Harirak Rama hay
Ang Tuon) áp dụng chính sách bài Việt và cứng rắn với người Chăm: Quyền tự trị
tại Thbuang Khmum bị bãi bỏ, sự qua lại với Châu Ðốc bị hạn chế. Nhiều chức sắc
cao cấp trong cộng đồng Chăm tại Thbuang Khmum nổi lên chống lại vì không muốn
bị đồng hóa với người Khmer.
Năm 1858, một sứ giả của vua Ang Duong là Udkana
Yodhasangram (Yuthea Sangkream) được cử đến thương thuyết nhưng bị quân Chăm phản
loạn giết chết. Ang Duong mang 10,000 quân đến đánh, giết được nhiều thủ lãnh
Chăm, giải tán Ponhea Lu và tuyên án khổ sai cho hơn 6,000 người khác. Gia đình
những người Chăm còn lại bị đày sang các tỉnh Pursat, Lovek, Kompong Tralach,
Kompong Luong và khu vực giữa Tonlé Sap và Phnom Penh, đạo Hồi bị cấm truyền
bá. Một thủ lãnh Chăm Java dẫn hàng ngàn người Chăm Java chạy sang Châu Ðốc tị
nạn và giúp nhà Nguyễn tấn công các vị vua Khmer chống người Việt và người
Chăm. Năm 1861 triều đình Khmer lại có loạn, Norodom (Narottam hay Nặc Ông
Lân), con vua Ang Duong, vừa lên ngôi thì bị hai em là hoàng tử Sisowath (Preah
Kevea hay Ang Sor) và hoàng thân Sivattha (Sivotha) tranh ngôi. Sivattha được
người Chăm hậu thuẫn chiếm thành Udong, Norodom chạy qua Bangkok, thủ đô Xiêm
La lánh nạn. Tại đây, Norodom kêu gọi người Chăm tại Châu Ðốc qua giúp. Nhân dịp
này, với sự có mặt của quân Pháp tại Nam kỳ, cộng đồng người Chăm tại Châu Ðốc
yêu cầu quân Pháp chiếm luôn Chân Lạp với hy vọng được tự do truyền bá đạo Hồi.
Năm 1862 Norodom được người Pháp và người Chăm đưa về nước giành lại ngôi vua,
nhưng Chân Lạp vẫn bị đặt dưới quyền bảo hộ của Xiêm La. Năm 1864, Pháp đuổi
quyền Xiêm ra khỏi lãnh thổ và đứng ra bảo hộ Chân Lạp trực tiếp, đổi tên nước
là Cambodge.
Dân chúng Khmer, không tán thành việc này, nổi lên chống lại
triều đình. Một nhân sĩ Khmer tên Assoua, tự nhận là hoàng tử Ang Phim, cháu
vua Ang Duong, kêu gọi người Khmer chống Norodom. Trong cuộc tranh chấp này, cộng
đồng người Chăm bị chia rẽ. Người Chăm tại Kompong Cham theo Assoua; người Chăm
tại Châu Ðốc theo Pháp ủng hộ Norodom. Vùng biên giới phía cực nam Việt Nam trở
thành vùng tranh chấp giữa người Khmer, người Việt và người Chăm. Người Chăm muốn
thành lập một tiểu vương quốc Hồi giáo tại Hà Tiên, chấp nhận triều cống Cao
Miên và nhận Pháp bảo hộ. Cambodge xác nhận Hà Tiên là lãnh thổ của họ và người
Việt nói Hà Tiên là một thị xã của miền Nam từ lâu đời. Sau cùng Pháp sát nhập
Hà Tiên vào lãnh thổ Nam kỳ. Trong khi đó, tại Cambodge, triều thần muốn đưa
hoàng tử Sisowath lên thay. Bị cô lập, Norodom giao cho Samdech Chau Ponhea, một
tướng Chăm, bảo vệ vòng đai thành Udong nhưng sau cùng phải giao cho Brière de
l'Isle, một sĩ quan Pháp, đảm nhiệm vì trong phe phản loạn cũng có người Chăm
do đó rất khó phân biệt. Sau cùng Samdech Chau Ponhea được giao bảo vệ hậu
cung. Năm 1865, một tu sĩ Phật giáo tên Pou Kombo (tự nhận là hoàng tử Ang
Phim, con vua Ang Chan, cháu vua Ang Duong) cùng với 2,000 người Chăm tại Châu
Ðốc nổi lên chống lại Norodom, bao vây thành Udong. Khoảng 1,000 người Chăm
khác từ Châu Ðốc theo quân Pháp sang bảo vệ thành Udong. Pou Kombo chạy sang
Châu Ðốc và Tây Ninh tị nạn.
Sau khi chiêu mộ thêm binh sĩ Chăm và Khmer, ngày
17-12-1866, Pou Kombo tiến vào Udong. Quân Khmer bỏ chạy, chỉ còn quân Chăm của
Samdech Chau Ponhea ở lại tử thủ. Nhưng qua ngày hôm sau, hơn 500 quân Chăm của
Pou Kombo bỏ theo Chau Ponhea vì lý do tôn giáo (Pou Kombo là một nhà sư Phật
Giáo). Hoàng tử Sisowath (Preah Kevea), được cả người Khmer và người Chăm tại
Kompong Cham lẫn Châu Ðốc ủng hộ, đứng ra lãnh đạo cuộc phản công chống Pou
Kombo. Tháng 12-1867, quân phản loạn bị bao vây tại Kompong Thom, Pou Kombo bị
giết. Pháp rất hài lòng về sự dũng cảm và sự trung thành của quân Chăm Hồi Giáo
ở Châu Ðốc, buộc Norodom phải khen thưởng xứng đáng.
Nhiều nhân vật Chăm giữ những chức vị quan trọng trong triều
đình vua Norodom. Nhưng vì sự cuồng nhiệt trong lối sống đạo, người Chăm Hồi
giáo không chiếm được nhiều thiện cảm của dân chúng Khmer, đa số theo đạo Phật.
Chỉ các vua chúa Khmer mới tin tưởng nhóm người Chăm Hồi giáo vì sự trung thành
và sự cang cường của họ, một số quân nhân Chăm được tuyển mộ để bảo vệ hoàng
gia và vòng đai củ thủ đô Nam Vang. Norodom mất năm 1904, hoàng thân Sisowath
lên thay, vòng đai cận vệ của nhà vua chỉ toàn người Chăm. Trong hai triều kế
tiếp, Monivong (1928-1940) và Sihanouk (từ 1940), người Chăm được giữ nhiều vai
trò quan trọng trong vương quyền.
Năm 1970, vòng đai phòng thủ Phnom Penh được giao cho tướng
Les Kosem, một người gốc Chăm và là một sĩ quan nhảy dù được huấn luyện từ
Pháp. Khi đã ổn định được thế đứng trong chính quyền Cambodge, Les Kosem liền
nghĩ tới việc phục hồi vương quốc Champa cũ. Sau 1954, những người Chăm Java
theo đạo Hồi là Khmer Islam và tỏ ra thù nghịch với người Việt. Trong những năm
1975-1979, những nhóm người Chăm sinh sống trong những thành phố tại Kongpong
Cham, Kongpong Chnang và nhiều nơi khác bị đuổi về nông thôn, hơn phân nửa đã bị
Khmer đỏ sát hại, số còn lại chạy sang Châu Ðốc và vùng biên giới Thái Lan lánh
nạn. Khi Khmer đỏ bị quân đội cộng sản Việt Nam đẩy lui ra khỏi lãnh thổ
Kampuchia, người Khmer Islam tị nạn tại Châu Ðốc trở về Kompong Cham, Kompong
Chnang và Phnom Penh sinh sống. Cộng đồng người Chăm Hồi giáo sống dưới chế độ
cộng sản thân Việt Nam của Heng Samrin và Hun Sen được tự do giữ gìn văn hóa và
giữ đạo của họ. Hiện có hơn 260 giáo đường Hồi giáo tại Kampuchia và mỗi năm có
trên 20 người hành hường tại La Mecque. Cũng nên biết đương kim thủ tướng Hun
Sen xuất thân từ Kompong Cham, do đó rất được người Chăm ủng hộ. Chính phủ của
Norodom Ranariddh cũng thế. Sự phồn thịnh và ổn định của Kampuchia trong những
năm 1979-1980 một phần là do sự đóng góp của nhóm Chăm Hồi giáo này, họ là đầu
cầu vận chuyển hàng hóa từ Việt Nam qua ngõ Châu Ðốc và trên sông Hậu. Trong
các chức vụ cao trong chính quyền Khmer, của Hun Sen và Ranariddh, đều có người
Khmer Islam.
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét