Hà giang là vùng cao nguyên núi đá, nơi đây luôn hấp
dẫn và lôi cuốn du khách trong và ngoài nước bởi cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ,
bao la và thoáng mát. Ngoài ra, Hà Giang còn là mảnh đất hội tụ của đa dạng nền
văn hóa. Đó là mảnh đất của 22 tộc người cư trú và mỗi dân tộc mang đến cho Hà
Giang một nét văn hóa độc đáo riêng, tiêu biểu là các dân tộc như: Mông, Dao,
Tày, Nùng, Giáy…
Người Mông
Người Mông ở Hà Giang có khoảng 194.483 người với 2
nhóm chính là Mông trắng và Mông hoa. Người Mông ở đây nổi tiếng với truyền thống
canh tác nương đá, trồng lúa, ngô và các loại hoa màu khác. Sản xuất thủ công của
đồng bào Mông đạt đến trình độ khá cao như dệt, đan lát, làm đồ gỗ, rèn đúc...
Trang phục truyền thống của phụ nữ Mông rất độc đáo. Một bộ nữ phục bao gồm
váy, áo cánh, áo xẻ ngực có yếm lửng, thắt lưng, khăn quấn đầu, xà cạp... Váy
thường là hình nón cụt, xếp nếp xoè rộng, cũng có khi là váy ống, khi mặc xếp ở
hai bên hông. Nhà của người Mông làm bằng đất, có 3 gian, gian giữa đặt bàn thờ
tổ tiên. Các cửa chính và cửa phụ đều mở về phía trong. Văn hoá truyền thống
người Mông là một kho tàng hết sức phong phú với những phong tục tập quán, lễ
nghi, tín ngưỡng. Các dòng họ người Mông có cách thờ cúng tổ tiên không giống
nhau. Một số lễ cúng chính như cúng ma cửa (xia mình), ma lớn mụ (đa trung) với
số lượng, nội dung các bài cúng, bài trí, sắp xếp nơi cúng, nơi ăn uống đa dạng
và phức tạp. Văn học nghệ thuật Mông thể hiện tâm lý, ý thức của cộng đồng, các
vấn đề về tự nhiên, xã hội và lịch sử. Nổi bật trong đó là những khúc hát về
tình yêu, được thể hiện bằng khèn, sáo, đèn môi, kèn lá. Hoa văn trang trí trên
váy là các hình bướm, rắn, hoa, răng bừa, mắt chim, chân lợn... màu sắc hài
hoà. Tất cả là những tài sản vô giá của cộng đồng người Mông được lưu giữ
từ lâu đời.
Người Dao
Người Dao ở Hà Giang có khoảng 95.959 người với các ngành
Dao đỏ, Dao tiền, Dao quần trắng, Dao áo dài, Dao lô giang. Họ sống bằng nông
nghiệp nương rẫy, ruộng bậc thang. Người Dao có một số nghề thủ công mang dấu ấn
riêng độc đáo như rèn đúc làm đồ trang sức, thêu in hoa trên vải bằng sáp ong...
Người Dao Hà Giang ở nhà sàn, nhà đất hoặc nửa sàn, nửa đất. Họ thường ở gần
nguồn nước.Trang phục của họ có nhiều yếu tố truyền thống như hoa văn chỉ màu,
các loại khăn, áo, váy quấn của phụ nữ rất đa dạng. Văn hoá tín ngưỡng truyền
thống của người Dao rất phức tạp thể hiện quan niệm, ý thức tâm linh cộng đồng.
Thờ cúng và ma thuật là một phương diện chứa đựng màu sắc riêng, có chiều sâu
văn hoá, đó không đơn giản là những hình thức mê tín dị đoan bình thường. Văn
nghệ dân gian Dao rất phong phú bao gồm những thần thoại, truyện cổ, truyện
thơ, dân ca, tục ngữ, câu đố phản ánh trong đó là quan niệm của cộng đổng về vũ
trụ, nhân sinh quan, thế giới quan.
Người Tày
Với khoảng 157.757 người sinh sống ở Hà Giang. Họ sống chủ
yếu bằng nghề trồng lúa nước tại các chân ruộng ở ven núi, sông và trồng trọt
trên nương rẫy. Các nghề thủ công gia đình khá phát triển như đan lát, sản xuất
nông cụ, đóng đồ gỗ, làm đồ gốm... Nghề dệt vải của người Tày khá phát triển, đặc
biệt là các loại chăn, khăn thổ cẩm với hoa văn phong phú được nhiều người yêu
thích. Làng người Tày thường ở chân núi và có từ 20 đến 30 nóc nhà. Họ ở nhà
sàn, lợp gianh hoặc cọ. Trang phục của họ chủ đạo là màu chàm, nữ chít khăn mỏ
quạ, mặc áo năm thân có thắt lưng, đeo vòng cổ, tay, chân bằng bạc. Văn hoá tín
ngưỡng người Tày rất phong phú với các loại lễ nghi và các bài cúng tế lễ liên
quan đến sản xuất, vòng đời con người, cưới hỏi, tang ma, lễ mừng nhà mới...
Văn học dân gian Tày là một kho tàng về các loại thần thoại, truyện cổ, truyện
thơ, dân ca... Dân ca Tày nói tiếng với các làn điệu "lượn"- đây là một
hình thức văn hoá như hát ví, hát đối đáp ở người Việt.
Người Nùng
Họ sinh sống ở Hà Giang với khoảng 61.312 người. Họ sống
chủ yếu bằng nghề làm ruộng nước với kỹ thuật canh tác, tưới tiêu khá cao. Chăn
nuôi gia súc khá phát triển. Đa dạng về nghề thủ công như rèn, đúc, đan lát,
nghề mộc, làm giấy bản đặc biệt là nghề dệt vải. Người Nùng thường sinh sống ở
các thung lũng bên sườn đồi hoặc ven sông, suối. Trang phục của họ được nhuộm
chàm, phụ nữ mặc áo năm thân, cúc cài nách phải. Nam giới mặc áo cổ đứng xẻ ngực
với hàng cúc vải và 4 túi không nắp. Họ ở nhà sàn khá to, rộng. Nhà ngoài dành
cho nam giới và là nơi thờ cúng tổ tiên, nữ giới ở nhà trong. Người Nùng không
làm giỗ sau khi chết mà làm sinh nhật (lễ mừng thọ) cho người sống từ 50 tuổi
trở lên và cúng chay cho người chết vào rằm tháng 7 âm lịch. Lễ cưới của người
Nùng còn bảo lưu nhiều tập quán cổ và người cậu bên mẹ có một vai trò rất quan
trọng thay mặt nhà trai đi dạm hỏi và tổ chức các công việc có liên quan đến tục
lệ cưới xin. Văn nghệ dân gian người Nùng nổi tiếng nhất là điệu Sli, là cách
hát giao duyên của thanh niên nam nữ.
Người Giáy
Người Giáy ở Hà Giang có khoảng 61.312 người. Họ sống bằng
nguồn chính là nghề trồng lúa nước, ngoài ra còn làm nương. Hàng năm người Giáy
có lễ Roóng poọc để mở đầu việc làm ruộng. Chuồng trại của họ xa nhà mà lại gần
nương rẫy. Nghề thủ công của người Giáy đáng chú ý là nghề dệt và đồ đan lát từ
tre lạt. Trang phục của họ đơn giản, hầu như không có hoa văn thêu thùa. Nam phục
gồm có quần dài chấm gối, xẻ nách phải, ống tay rộng và chiếc quần ống rộng. Nữ
phục gồm áo dài che kín mông, xẻ nách phải, ống tay rộng, trên cổ tay đắp miếng
vải khác màu. Kiến trúc của họ là nhà sàn, gian thờ ở chính giữa. Bàn thờ có 3
bát hương thờ thần đất, thần bếp và tổ tiên. Khi trong nhà có người chết phải
làm ma, con cháu trong nhà kiêng ăn thịt, không vui đùa, không ngồi ghế cao, ngủ
giường cao. Khi đưa đám phải đi nhanh như chạy vì "sợ bị cướp xác".
Trai gái đến tuổi dựng vợ gả chồng thường phải làm thủ tục xem lá số, xem mệnh
nếu hợp mới được lấy. Văn nghệ dân gian Giáy rất phong phú , thơ ca, tục ngữ,
thành ngữ, câu đối của họ nhiều về số lượng và phong phú về nội dung. Dân ca
Giáy có 3 hình thức rất phổ biến là Vươn há lản (hát bên mâm rượu), Vươn chăng
hằm (hát tỏ tình) và Vươn sroỏng răn (hát tiễn đưa).
Người La Chí
Người La Chí duy nhất chỉ có ở Hà Giang còn có tên gọi
khác là Cù Tê, Thổ Đen, Mán Xá. Cộng đồng người La Chí chỉ có khoảng 10.361 người.
Họ rất giỏi canh tác ruộng bậc thang và làm nương với các loại cây trồng chủ yếu
như lúa, ngô, khoai, sắn...nhưng có một điều đặc biệt là những nương rẫy màu mỡ
nhất bao giờ cũng được dùng để trồng bông và cây chàm. Làng bản La Chí thường nằm
ở trên các sườn núi cao. Nhà ở loại nửa sàn, nửa đất, phần đất dùng làm bếp và
phần sàn dùng làm nhà ở. Trang phục của họ không cầu kỳ. Đàn ông mặc áo dài nhuộm
chàm, cài khuy cách trái. Phụ nữ chủ yếu mặc quần, bộ nữ phục đáng chú ý có chếc
váy thêu, bên ngoài là chiếc áo dài xẻ ngực không cài cúc, dùng thắt lưng vải để
giữ vạt áo. Người La Chí coi mọi vật đều “có hồn”, trong đó đáng chú ý là “hồn
lúa”. Trong nhà có nhiều bàn thờ của nam giới xếp theo thứ tự từ bố đến con
trai út, con thứ và con cuối cùng là con trai cả. Khi có người chết, quan tài
được rửa bằng xương gà để chọn đất chôn. Trong hôn nhân họ có tục lệ “trói” chú
rể cùng với bạn bè, bà mối dẫn cô dâu ra khỏi buồng về nhà chú rể. Văn học nghệ
thuật La Chí là những câu chuyện kể, giải thích nguồn gốc con người, nguồn gốc
dân tộc và nguồn gốc mặt trời, cây lúa. Trong các dịp lễ hội, có nhiều trò chơi
vui nhộn như thú ném còn, đánh đu và đặc biệt là bài hát “Ní ca”, đánh đàn
tích, chiêng, trống.
Trên đây chỉ là một phần nhỏ văn hoá của 6 dân tộc đông
dân ở Hà Giang. Họ còn nhiều nét văn hoá rất độc đáo khác cần tìm hiểu, nghiên
cứu và khám phá. Các dân tộc khác chưa kịp nhắc đến như người Cờ lao, Pu Péo,
Lô Lô, Phù Lá, Người Hoa, Pà Thẻn…cũng có đời sống văn hoá, sinh hoạt riêng khá
độc đáo góp phần cùng các dân tộc trên tạo ra một Hà Giang đa dạng bản sắc văn
hoá dân tộc.
Hoàng Thị Lê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét