Bài 3
Thời kỳ mở nước và dựng nước
Từ sau nửa thế kỷ thứ hai sau công nguyên, phần lãnh thổ cực
nam Giao Chỉ trở nên khó trị, dân cư bản địa liên tục nổi lên chống lại chính
sách cai trị hà khắc của chính quyền đô hộ nhà Hán. Huyện Tượng Lâm trở thành
nơi tranh chấp thường trực giữa quan quân đô hộ và nhân dân địa phương.
Năm 190, người Tượng Lâm nổi lên giết thứ sư Chu Phù và chiếm
huyện thành. Vài năm sau, năm 192, dân cư Tượng Lâm lại nổi lên giết huyện lệnh
(huyện trưởng) và tôn Khu Liên, con một quan công tào (xã trương) địa phương,
lên làm vua. Khu Liên tự tiện xén một phần lãnh thổ cực nam của quận Nhật Nam -
huyện Tượng Lâm – thành lập một vương quốc riêng: Lâm Ấp.
Lâm Ấp: một biến cố lịch sử
Cho đến nay gần như không một sử gia Việt Nam nào quan tâm
đến biến cố Lâm Ấp. Có lẽ nhiều người cho rằng Lâm Ấp không quan trọng vì không
dính líu gì, nếu không muốn nói là thù địch, với người Việt Nam. Tất cả đều rất
lầm. Cuộc nổi dậy của người Lâm Ấp là của chính dân tộc Việt Nam, người Việt cổ,
vào thời đó. Lâm Ấp là một biến cố lịch sử trọng đại, mở đầu giai đoạn đấu
tranh giành độc lập của những dân tộc bị đặt dưới ách đô hộ của người Hán.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, một lãnh
thổ đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của thiên triều đã tự tách ra và tuyên bố
độc lập. Sự kiện này trái với nguyên tắc tổ chức chính quyền của người Hoa, vì
từ thế kỷ thứ hai trước công nguyên trở đi, dưới thời nhà Hán, nguyên tắc trung
ương tập quyền đã là nền tảng của các chính sách cai trị của người Trung Hoa,
không có ngoại lệ. Giao Chỉ thời đó là một phần lãnh thổ Trung Hoa, các quan
cai trị đều do thiên triều trực tiếp chỉ định, mọi ý đồ ly khai hay tự trị đều
bị trừng trị. Mục đích của chính sách trung ương tập quyền này là giữ gìn và bảo
vệ sự toàn vẹn giống nòi, người Hán không chấp nhận bất cứ một pha trộn chủng tộc
nào ngoài chủng tộc Hán với nhau.
Một lấn cấn khó chịu là trong suốt thời Bắc thuộc, đại bộ
phận giới "quí tộc" Lạc Việt (Lạc hầu và Lạc tướng), và người Kinh -
bị khuất phục bởi văn minh và văn hóa do người Hán mang lại - đã hợp tác với
người Hán trong việc quản trị đất nước, đương nhiên ở những địa vị thấp hơn. Những
cuộc nổi dậy chống lại chính sách cai trị hà khắc và muốn tách khỏi văn minh và
văn hóa của người Hán, phần lớn đều do người Mường (hai Bà Trưng năm 42 và bà
Triệu năm 248) và người Nam Đảo (Mai Thúc Loan năm 722) khởi xướng. Những cuộc
nổi dậy của người Kinh - Lý Bí, Triệu Quang Phục, Lý Phật Tử (thế kỷ 6 và 7),
Phùng Hưng và Dương Thanh (thế kỷ 8), Khúc Thừa Mỹ và Dương Đình Nghệ (thế kỷ
10) - đều xuất phát từ động cơ bất mãn của những người cộng tác không được ưu
đãi hơn là ý chí giành độc lập hay muốn tách khỏi ảnh hưởng của người Hoa. Chỉ
đến thời Ngô Quyền ý chí độc lập của người Việt mới rõ ràng nhưng người Kinh lại
xem người Chăm là đối thủ, nên đã không ngừng phân biệt đối xử vì văn hóa khác
biệt và uy hiếp họ trong suốt thời kỳ tự chủ, quên hẳn quá khứ ruột thịt đã
qua.
Trở về với Lâm Ấp, khi thành lập vương quốc riêng có lẽ Khu
Liên không có ý định tách rời ảnh hưởng văn minh và văn hóa Trung Hoa, nhưng với
thời gian quyết tâm tách khỏi quỹ đạo Trung Hoa ngày càng rõ nét. Sở dĩ có sự
đoạn tuyệt này là vì tổ chức chính trị xã hội của người Hoa không còn phù hợp với
nền tảng chính trị xã hội Lâm Ấp nữa.
Vào thời kỳ này, thương nhân và tu sĩ Ấn Độ đã giao tiếp mật
thiết với người Chăm sinh sống ven biển miền Trung. Khi ở lại chờ thuận buồm
xuôi gió trở về quê cũ, những người Ấn này đã truyền cho giới quí tộc địa phương
văn minh và văn hóa của họ, và đương nhiên truyền luôn cả cách thức tổ chức xã
hội. Khác với người Hoa, tổ chức xã hội của người Ấn dựa trên nguyên tắc tản
quyền và phân quyền, phù hợp với nếp sống và ước nguyện tự trị của người địa
phương nên rất được ưa chuộng. Đặc điểm của người Ấn là không dùng bạo lực để
áp đặt văn hóa hay uy quyền chính trị của mình trên những xã hội khác, kém hơn,
mà để các thân hào địa phương tự nguyện làm thay, sau khi hấp thụ văn minh và
văn hóa của họ.
Tranh chấp văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ trong nội bộ Lâm Ấp
ngã ngũ sau khi Khu Liên qua đời, chữ Phạn cổ (sanscrit, một loại chữ viết xuất
phát từ miền nam Ấn Độ cách đây hơn 2.000 năm) trở thành chữ viết chính thức của
các triều vương. Các bia ký tìm được trong giai đoạn này đều khắc bằng chữ Phạn.
Quốc thư trao đổi của Lâm Ấp với Trung Hoa thời đó được viết bằng chữ "Hồ"
(chữ của nước Hồ Tôn Tinh, tức chữ Phạn) thay vì chữ Hán. Văn hóa Ấn Độ, từ
phía Nam đưa lên, trơ thành văn hóa của toàn vương quốc Lâm Ấp. Đạo Bà La Môn
và đạo Phật được phổ biến rộng rãi trong quần chúng, lấn át anh hương đạo Khổng
và đạo Lão của văn hóa Trung Hoa để lại trong vương quốc. Cũng nên biết thờ
cúng ông bà là tín ngưỡng dân gian của người bản địa, Kinh hay Chăm, do đó rất
được kính trọng, giáo lý và nghi lễ các tôn giáo khác phải thích hợp theo nếu
muốn được ủng hộ.
Về chính trị, các vị vua Lâm Ấp đều gán ghép tên mình với một
thần linh, thường là với Siva (còn gọi là Isvara) để có độc quyền cai trị. Uy
quyền vua thể hiện qua cái lọng màu trắng mà dân gian không được dùng. Phụ tá
nhà vua là các quan lại trung ương và địa phương, được phân chia thành ba hạng:
đứng đầu là hai vị tôn quan (senapati và tapatica-hai tể tướng võ và văn), kế
là thuộc quan gồm ba hạng: luân đa đinh (dandavaso bhatah-tướng chỉ huy cấm vệ),
ca luân trí đế (danay pinang, quan hầu trầu) và ất tha già lan (yuvaraja-kế
vương), sau cùng là ngoại quan (quan lại địa phương). Quân lực Lâm Ấp khoảng từ
40 đến 50.000 người, gồm kỵ binh, tượng binh và thủy binh,
Triều đình Trung Hoa có lẽ cũng muốn chấm dứt tình trạng
tranh chấp văn hóa và chính trị kéo dài quá lâu này nên đã chấp nhận sự ly khai
một cách miễn cưỡng, họ đặt tên quốc gia mới này là Lâm Ấp, thay vì Hồ Tôn Tinh
hay Tượng Lâm như trước kia, và duy trì mối quan hệ tốt để nhận càng nhiều phẩm
vật triều cống càng tốt.
Về danh xưng, Lâm Ấp chỉ là sự biến nghĩa của chữ Tượng
Lâm. Đối với nhà Đông Hán, danh xưng Lâm Ấp là một khinh miệt, vì đó chỉ là một
phần đất nho không quan trọng ở vùng cực nam để thiên triều phai quan tâm trực
tiếp. Sách Thuy Kinh Chú giai thích: "Lâm Ấp là huyện Tượng Lâm, sau bo chữ
Tượng để chỉ còn chữ Lâm". Cũng nên biết ngôn ngữ Trung Hoa trong thời kỳ
này có nhiều hạn chế trong việc phiên âm các tên ngoại quốc: Lâm Ấp là cách
phát âm Việt hóa từ chữ Lin-yi, phiên âm từ chữ "Hindi" hay
"Indi", tức người Ấn. Có người nói đó là cách phiên âm từ chữ Phạn
"Indirapura" (đất của người Ấn Độ). Về sau người Chăm đặt tên phần đất
từ Quảng Bình đến Thừa Thiên là Indrapura (đất của Indra, thần sấm sét). Lâm Ấp
cũng có thể do sự phát âm Việt hóa từ chữ "Krom" hay "Prum"
(hai tộc của người Việt cổ) mà ra. Bình dân hơn người ta giai thích: Lâm là rừng,
Ấp là thôn nho v.v... Nói chung, cho dù diễn giải thế nào Lâm Ấp là một định chế
độc lập với vương triều Trung Hoa tại Giao Chỉ.
Về tên gọi Khu Liên cũng thế, có rất nhiều tranh cãi. Sử
sách Trung Hoa viết tên vị vua đầu tiên của Lâm Ấp là Khu Liên, có sách viết là
Khu Quỳ, Khu Đạt hay Khu Vương. Nhiều sử gia cho rằng Khu Liên thuộc dòng dõi của
bộ tộc Dừa ơ phía Bắc… Thật ra Khu Liên không là tên của người nào cả, đó chỉ
là cách gọi một cách kính trọng một người có ngôi vị cao trong một định chế tập
thể (làng, xã, huyện…). Đối với dân chúng địa phương, "Khu" không
phai là tên riêng mà là tước vị của một tộc trương (lãnh chúa), phiên âm từ chữ
"Kurung" (như các vua Hùng) của người Việt cổ – hay chữ
"Varman" của người Chăm từ tiếng Phạn, có nghĩa là tước tộc trương,
lãnh chúa hay vua.
Trước đó, năm 137, các quan đô hộ nhà Hán gọi quân phản loạn
ở Tây Quyển (Quảng Bình) là "rợ Khu Liên". Như vậy Khu Liên chỉ là
tên gọi chung những người không cùng văn hóa với người Hán ở phía nam Giao Chỉ.
Tên gọi này không liên quan gì đến danh xưng Sri Mara (tên một vị vương tôn người
Chăm khác cùng thời kỳ, con bà Lona Lavana ở Panduranga) tìm thấy trên một bia
ký bằng đá granít (ngang 1 mét, dày 1 mét, cao 2,5 mét) ở làng Võ Cạnh (nay thuộc
xã Vĩnh Trung), Nha Trang.
Về địa lý, vương quốc Lâm Ấp ở đâu, rộng hẹp như thế nào?
Còn rất nhiều điểm tối, không ai rõ. Theo sử cổ Trung Hoa thì lãnh thổ vương quốc
này là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam, phía nam huyện Lô Dung (Thừa Thiên
ngày nay). Đường Thư nói Lâm Ấp từ huyện Tây Quyển (Quảng Bình) trở xuống. Đại
Nam Nhất Thống Chí nói Tượng Lâm là Bình Định và Phú Yên. Thuy Kinh Chú cho biết
thu phu Lâm Ấp lúc đầu không biết ở đâu, sau được biết đặt tại Khu Lật (Huế, Thừa
Thiên), phía Nam có sông Lô Dung (sông Hương) chay qua. Một cách tóm lược, dựa
vào sử sách xưa, lãnh thổ Lâm Ấp có thể đã trải dài từ Quảng Bình đến Quảng
Nam.
Một số chuyên gia Champa cho rằng Lâm Ấp là lãnh thổ
Indrapura (đất của thần Indra), từ mũi Hoành Sơn đến đèo Hải Vân, do vương triều
Gangaraja, tức những người Ấn Độ đến từ sông Gange, khai sinh ra. Sự kiện này cần
được ghi nhận với tất cả dè dặt vì cho đến nay chưa một dấu tích bia ký nào giải
thích sự kiện này.
Các triều vương Lâm Ấp
1. Triều vương thứ nhất (192-366): khai sinh vương quốc
Khu Liên lên ngôi năm 192, trị vì trong nhiều năm, nhưng
không biết mất năm nào và ai là người kế vị. Sử cổ Trung Hoa (Lương thư) cho biết
trong khoang thập niên 220-230, con cháu Khu Liên có gơi phái bộ đến thống đốc
Quang Đông và các thái thú Giao Châu (Lã Đại và Lục Dận) triều cống và duy trì
quan hệ ngoại giao.
Sự kiện nổi bật sau thời Khu Liên là cuộc dấy binh của bà
Triệu năm 248 tại quận Cửu Chân chống lại quân Đông Ngô (Trung Hoa). Bà Triệu,
còn gọi là Triệu Trinh Nương, là một thiếu nữ Mường cưỡi voi ra trận làm khiếp
đảm quân địch. Bà Triệu cũng là mẫu người lý tưởng của chế độ mẫu hệ: thân hình
nẩy nở (vú dài ba thước!?) và can đảm (dám đứng ra gánh vác việc nước). Có lẽ
trong giai đoạn này con cái của Khu Liên gia nhập vào đội quân của bà Triệu rất
đông vì cuộc khởi nghĩa này được sử Trung Hoa ghi nhận là cuộc nổi dậy của nhân
dân Lâm Ấp.
Nhà Đông Ngô phong danh tướng Lục Dận tước An Nam hiệu úy,
tức thứ sử, sang Giao Châu dẹp lọan. Lục Dận vừa dùng mưu vừa làm áp lực chiêu
dụ các bộ lạc nổi loạn ; sau hơn 6 tháng cầm cự quân của Bà Triệu bị cô lập và
bị đánh bại phai chạy về miền Nam lánh nạn. Lục Dận xua quân xuống chiếm Khu Lật
(Huế), bắt theo hàng ngàn thợ khéo tay mang về Giao Châu rồi dâng cho nhà Đông
Ngô năm 260. Những vùng đất bị nghĩa quân Lâm Ấp chiếm đóng đều bị lấy lại.
Lãnh thổ Lâm Ấp trơ về vị trí cũ, tức huyện Tượng Lâm, quân Đông Ngô không dám
tiến xuống xa hơn.
Có lẽ truyền nhân đích tôn của Khu Liên đã chết trong cuộc
khởi nghĩa này vì không còn được nhắc tới nữa. Sách Lương thư cho biết năm 270,
cháu ngoại của Khu Liên là Phạm Hùng (Fan Hiong hay Fan Hsung) lên làm vua.
Cũng nên biết "Phạm" ở đây là cách phiên âm Hán
hóa từ chữ "Po" (hay Pô, Phò, Pha) của người Chăm, tức là người đứng
đầu, lãnh tụ hoặc là ngài, chứ không phải là cách phiên âm từ chữ
"varman" của người Ấn, cũng có nghĩa là vua, vương, ngài, hay "họ
Phạm" của người Việt Nam mà ra. Cũng nên biết người Lâm Ấp theo chế độ mẫu
hệ, chỉ có tên chứ không có họ.
Dưới thời Phạm Hùng, lãnh thổ Lâm Ấp được nới rộng tới
thành Khu Túc, cạnh sông Gianh, phía bắc và tới Khánh Hòa (Kauthara) phía nam.
Phạm Hùng cũng đã chinh phục và thống nhất các tiểu vương quốc khác nằm trong
các lõm đất dọc duyên hai miền Trung: Amavarati (Quang Nam), Vijaya (Quang
Ngãi, Bình Định) và một phần lãnh thổ Aryaru (Phú Yên). Nhưng sau hơn 10 năm
chinh chiến (271-282), Phạm Hùng bị quân Tây Tấn (do Đào Hoàng chỉ huy) đánh bại,
năm 283 con là Phạm Dật (Fan Yi) lên ngôi thay. Năm 284, Phạm Dật gơi một sứ bộ
sang Trung Hoa cầu hòa ; Lâm Ấp được thái hòa và Phạm Dật trị vì 52 năm thì qua
đời.
2. Triều vương thứ hai (337-420): mở rộng vương quốc
Phạm Dật qua đời năm 336, một tể tướng cướp ngôi vua tự
xưng Phạm Văn (Fan Wen). Phạm Văn không phải là người Chăm mà là một người gốc
Hoa quê ơ Dương Châu, bị bán làm nô lệ cho một quan cai trị huyện Tây Quyển tên
Phạm Tương. Năm 15 tuổi, vì phạm tội gian Văn phai trốn theo một thương gia người
Lâm Ấp sang Trung Hoa và Ấn Độ buôn bán, nhờ đó đã học hỏi được kỹ thuật luyện
kim và xây thành lũy của người Hoa. Khi về lại Lâm Ấp năm 321, Văn trở thành
người thân tín của Phạm Dật và được giao trọng trách xây thành, đắp lũy, dựng
cung đài theo kiểu Trung Hoa, chế tạo chiến xa và vũ khí, chế biến dụng cụ âm
nhạc v.v... và được thăng chức tể tướng.
Dưới thời Phạm Văn, kỹ thuật luyện sắt (rèn kiếm, đúc lao)
đạt đến tột đỉnh. Nhà vua áp dụng văn minh Ấn Độ thẳng vào đời sống: cai tổ lại
hệ thống quan lại theo khuôn mẫu Ấn Dộ, nhờ đó guồng máy tổ chức chính quyền chạy
đều và mang lại hiệu qua tốt ; xây dựng thu phu chính trị tại Khu Lật
(K’iu-sou, hay Thành Lồi, Huế), hình chữ nhật, chu vi 2100 mét, tường cao 8
mét, có 16 cưa, dân chúng sống chung quanh chân thành, mỗi khi có loạn, các cửa
thành đều đóng lại. Với thế mạnh này, Phạm Văn đánh thắng hai nước Đại Kỳ Giới
và Tiểu Kỳ Giới (có thể đây là hai vương quốc trên đất Lào ngày nay), chinh phục
nhiều bộ lạc khác như Che Phou, Siu Lang, Khiu Tou, Kan Lou và Fou Tan (có thể
là những bộ lạc thiểu số gốc Thái trên dãy Trường Sơn), tăng cường số phụ nữ
mang về từ các lãnh thổ đánh chiếm được và tăng nhân số trong quân đội (khoảng
từ 40.000 đến 50.000 người).
Năm 340, Phạm Văn xin nhà Đông Tấn cho sát nhập quận Nhật
Nam, gồm các huyện Tây Quyển, Ty Canh, Chu Ngô, Lô Dung và một phần đất phía
nam quận Cưu Chân huyện Hàm Hoan (Thanh Hóa) vào lãnh thổ Lâm Ấp nhưng không được
toại nguyện. Phạm Văn liền xua quân tiến công vào nội địa Nhật Nam, chiếm huyện
Tây Quyển, giết thứ sư Hạ Hầu Lâm, lấy mũi Hoành Sơn (nam Thanh Hóa) làm biên giới
phía bắc, cho xây lại thành Khu Túc (cạnh sông Gianh) phòng giữ. Từ đó phần
lãnh thổ từ đèo Ngang trơ xuống thuộc về Lâm Ấp và cũng kể từ đó phía bắc đèo
Ngang là nơi xảy ra những trận thư hùng giữa Lâm Ấp và Giao Châu trong suốt hai
thế ky 4 và 5. Năm 349 nhà Đông Tấn phản công, quân Lâm Ấp bị đánh bại, Phạm
Văn bị trọng thương và qua đời, con là Phạm Phật (Fan Fo) lên thay.
Phạm Phật là một vị tướng tài ba, được nhiều sử gia cho là
người mơ đầu vương triều Gangaraja (Bắc Chiêm Thành). Vừa lên ngôi, Phạm Phật tấn
công quân Đông Tấn tại Nhật Nam và vây thành Cưu Chân. Năm 351, quân Lâm Ấp bị
đánh bại phai bo chạy về phía tây tại Lãng Hồ, huyện Thọ Lãnh (Thanh Hóa),
thành Khu Túc bị chiếm, ranh giới được thiết lập lại tại huyện Ty Canh gần sông
Nhật Lệ (Quang Bình). Năm 359, quân Đông Tấn chiếm huyện Thọ Lãnh và đánh bại
quân Lâm Ấp tại vịnh Ôn Cấn, chiếm thành Khu Túc; Phạm Phật xin hòa và gơi sứ bộ
sang Trung Hoa triều cống (372 và 377). Phạm Phật mất năm 380 nhường ngôi cho
con là Phạm Hồ Đạt.
Phạm Hồ Đạt (Fan Houta) được nhiều học gia cho là vua
Dharmamaharaja, hiệu Bhadravarman I, người sáng lập vương triều Gangaraja. Dưới
thời Phạm Hồ Đạt, Phật giáo tiểu thừa (Thevada) phát triển mạnh, nhiều nhà sư đến
trực tiếp từ Ấn Độ sang truyền đạo. Thành Khu Lật (Huế) vẫn là trung tâm chính
trị nhưng đổi tên thành Kandapurpura, nghĩa là Phật Bao Thành (vì là nơi có nhiều
đền đài và hình tượng Phật và Siva). Bên cạnh đó nhà vua còn cho xây dựng thêm
một trung tâm tôn giáo mới tại Amavarati, tức thánh địa Hào Quang (nay là Mỹ
Sơn, một thung lũng cách Đà Nẵng 70km về phía tây). Nhiều đền thờ Bà La Môn được
xây dựng tại Mỹ Sơn để thờ thần Siva và tượng Linga, tượng trưng sức mạnh phái
nam. Ngôi đền đầu tiên được xây bằng gỗ vào cuối thế ky 4 mang tên Bradresvara,
kết hợp giữa tên vua Bradravarman I và thần Isvara (hay Siva). Kể từ thế ky thứ
4 trở đi lãnh tụ chính trị và tôn giáo tại Lâm Ấp là một: thờ thần tức thờ vua,
vua thay mặt thần Siva cai quan muôn dân. Siva vừa là thần bảo hộ xứ sở vừa là
vị thần giữ đền (Dvarapala) để dân chúng đến thờ phượng và dâng lễ vật.
Năm 399, Phạm Hồ Đạt mang quân chiếm quận Nhật Nam, giết
thái thú Khổng Nguyên, tiến công quận Cửu Đức, bắt sống thái thú Tào Bính nhưng
bị quân của thống chế Đỗ Viện đánh bại phải rút về dưới đèo Ngang. Năm 413, Phạm
Hồ Đạt mang bộ binh chiếm đóng Nhật Nam, ra lệnh cho thủy binh đổ bộ vào Cửu
Chân đốt phá các làng xã ven duyên. Thứ sư Đỗ Tuệ Độ mang quân ra nghinh chiến,
chém được con của Phạm Hồ Đạt là Phạm Trân Trân (tiểu vương đất Giao Long) và
tướng Phạm Kiện, bắt làm tù binh hơn 100 người, trong có một hoàng tư tên Na
Neng, tất ca đều bị chém đầu. Phạm Hồ Đạt trốn vào rừng sâu rồi mất tích. Trong
khi chưa tìm được một vị vua mới, triều đình Lâm Ấp tiếp tục triều cống Trung
Hoa để được yên về chính trị.
Trong thời gian từ 413 đến 420, con cháu Phạm Hồ Đạt tranh
giành ngôi vua, nội chiến xảy ra khắp nơi. Năm 413, một người con của Phạm Hồ Đạt
là Địch Chớn (Ti Chen), đạo sĩ Bà La Môn, được triều thần đưa lên ngôi vua, hiệu
Gangaraja (sông Gange bên Ấn Độ). Địch Chớn là người đam mê văn hóa Ấn Độ muốn
nhường ngôi cho em là Địch Khai (Ti Kai) để sang Ấn Độ sống những ngày cuối đời,
nhưng Địch Khai sợ bị triều thần ám hại, dẫn mẹ chạy trốn vào rừng. Ngôi báu
đành nhường cho Manorathavarman, cháu Địch Chớn nhưng tể tướng Thiếu Lâm (Tsang
Lin) chống lại vì người này không được sinh ra từ một người mẹ có dòng máu tinh
khiết (tức đẳng cấp Brahman), nên bị Manorathavarman giết chết.
3. Triều vương thứ ba (420-530): tranh chấp với Trung Hoa
Năm 420, con cháu của Thiếu Lâm ám sát vua Manorathavarman
và đưa người em cùng mẹ khác cha của Địch Chớn là Văn Địch (Wen Ti) lên thay.
Văn Địch xưng hiệu là Phạm Dương Mại I (Yan Mah hay Fan Yang Mai), có nghĩa là
Hoàng tư Vàng, nhưng không trị vị lâu vì bị chết trong một cuộc tấn công của
quân Đông Tấn. Con là thái tư Đốt, 19 tuổi, được nhà Đông Tấn phong vương năm
421, hiệu Dương Mại II.
Nhân tình thế loạn lạc bên Trung Hoa (nhà Tống dẹp
nhà Đông Tấn), năm 431, Dương Mại II dẫn hơn 100 chiến thuyền tấn công các làng
ven biển tại cưa Thọ Lãnh, Tứ Hội và Châu Ngô (quận Nhật Nam và Cưu Chân) nhưng
bị đánh bại, quân Tống chiếm thành Khu Lật, Dương Mại II chạy trốn ra Cù Lao
Chàm (Quang Nam). Năm 433, Dương Mại II xin "lãnh" đất Giao Châu về
cai trị nhưng vua Tống không chịu, chiến tranh lại xảy ra. Năm 443 vua Tống Du
Long phong thống chế Đàn Hòa Chi làm thứ sư Giao Châu, cùng hai phó tướng là Tống
Xác và Túc Canh Hiến, mang đại quân đánh Lâm Ấp, Phạm Dương Mại II chạy thoát
được ra cưa Tượng Phổ, vịnh Bành Long (Bình Định), tổ chức lại lực lượng, tăng
cường thêm nhiều đội tượng binh rồi ra lệnh tổng phan công nhưng không địch nổi
quân Nam Tống. Những người sống sót chạy sang Láng Cháng (Luang Prabang tại Bắc
Lào) tị nạn, một số chạy đến Champassak (Nam Lào) ẩn náu. Đàn Hòa Chi thu rất
nhiều vàng bạc, châu báu, tượng đồng và đập phá rất nhiều đền đài. Sư Trung Hoa
(Tống Thư) chép rằng Đàn Hòa Chi lấy được nhiều tượng vàng (mười người mới ôm
xuể), đem nấu chay thâu được hơn 10 vạn cân (50.000 kí-lô vàng?). Từ đó Trung
Hoa biết Lâm Ấp có nhiều vàng nên mỗi khi có dịp là tiến quân xuống đánh cướp.
Trong thời này, nhiều nhà sư Phật giáo Trung Hoa ái mộ nét kiến trúc và tượng
đài trong các đền thờ tại Mỹ Sơn sang Lâm Ấp tìm hiểu và học hoi rất đông, nhiều
tượng Bồ Tát của Phật giáo Đại Thừa Trung Hoa được tìm thấy trong các chùa
(chùa Quang Khê) trong vùng.
Trong lúc chạy trốn về phía nam, Dương Mại II chinh phục
luôn các tiểu vương tại Vijaya (Bình Định), Aryaru (Phú Yên), thống nhất lãnh
thổ phía Bắc. Năm 443, Dương Mại II về lại Khu Lật, thấy canh hoang tàn, buồn rầu
rồi mất năm 446. Lãnh thổ phía Bắc của Lâm Ấp bị đẩy lùi về huyện Lô Dung (Thừa
Thiên), con cháu Dương Mại II lại tranh chấp quyền hành.
Năm 455 con Dương Mại II là Phạm Chút (Fan Tou) lên ngôi,
hiệu Trần Thành (Devanika). Trung tâm chính trị vẫn tại Khu Lật, nhưng Trần
Thành cho xây dựng thêm một trung tâm văn hóa và tôn giáo mới tại Amaravati, gọi
là thánh địa Hào Quang (Mỹ Sơn, Quang Nam). Vương quốc Lâm Ấp tiếp tục được nới
rộng xuống phía nam đến tận sông Ba (Tuy Hòa), thuộc lãnh thổ Aryaru (Phú Yên)
và vùng núi non phía tây lân cận (cao nguyên Kontum, Darlac), và phía tây tới
Champassak (Nam Lào), nhiều bộ lạc Thượng sống trên dãy Trường Sơn cũng theo về
triều cống. Phạm Trần Thành mất năm 472, Lâm Ấp không có vua, nội bộ triều đình
có biến động.
Năm 484, một người Khmer tên Phạm Đăng Căn Thăng (Kieou
Tcheou Lo), con vua Phù Nam Jayavarman tị nạn tại Lâm Ấp, cướp ngôi và cầm quyền
trong gần 20 năm. Năm 492, con Phạm Trần Thành là Phạm Chư Nông giết Căn Thăng
giành lại ngôi báu. Phạm Chư Nông bị chết đuối năm 498, con cháu tiếp tục trị
vì đến năm 527: Phạm Văn Tổn (Fan Wen Kuoan) trị vì từ 498 đến 502, Phạm Thiên
Khơi hiệu Devavarman (510-514) và Cao Thức Thắng Khơi hiệu Vijayavarman hay Bật
Tôi Bật Ma (526-527).
4. Triều vương thứ tư (529-757): củng cố và ổn định lãnh thổ
Năm 529, Vijayavarman mất không người kế tự. Triều đình Lâm
Ấp phong Luật Đa La Bật Ma lên làm vua, hiệu Rudravarman I. Năm 577 Luật Đa La
Bật Ma mất, con là Prasastadharma lên kế nghiệp, hiệu Phạm Phạn Chi (Sambhuvarman).
Dưới thời Phạm Phạn Chi, văn hóa Lâm Ấp tỏa rộng khắp Đông Nam Á. Năm 598, nhà
Tùy chiếm dóng Lâm Ấp và phân chia thành ba châu: châu Hoan (Ty Canh), châu Ái
(Hai Âm) và châu Trong (Khương). Năm 605, Phạm Phạn Chi dời kinh đô về
Sinhapura, thành phố Sư Tư (nay là Trà Kiệu, cạnh sông Thu Bồn, huyện Duy
Xuyên, tỉnh Quang Nam). Danh xưng Campa (Chiêm Thành) chính thức xuất hiện
trong hời này.
Năm 629 Phạm Phạn Chi mất, con là Phạm Đầu Lê
(Kandharpardharma) kế nghiệp. Năm 645 Phạm Đầu Lê qua đời, vương triều Lâm Ấp
loạn lạc. Phạm Trấn Long (Prabhasadharma), con Đầu Lê, vừa giành được ngôi vua
liền bị giết chết, dân chúng đưa con trai của một công chúa, em gái của Trấn
Long, tên Chư Cát Địa lên làm vua, hiệu Bhadresvaravarman (sự ghép tên giữa thần
Bradresvara và vị tổ Bradravarman). Chư Cát Địa làm vua được một năm (646) thì
bị triều thần lật đổ, công chúa Tchou Koti, con gái của chánh phi của Phạm Đầu
Lê, được tôn lên làm nữ vương, hiệu Jagaddharma. Đức độ của bà Jagaddharma rất
được dân chúng kính trọng. Sau khi qua đời, nữ vương Jagaddharma được dân chúng
lập đền thờ tại tháp Po Nagar (Xóm Bóng, Nha Trang).
Năm 653 Tchou Koti nhường ngôi cho chồng (người Khmer) tên
Prakasadharma (Po Kiachopamo), hiệu Vikrantavarman I. Năm 685, Vikrantavarman I
qua đời, nhường ngôi cho con là Vikrantavarman II (Kientotamo).
Dưới thời Vikrantavarman II, văn hóa Lâm Ấp toa khắp
Đông Nam Á, các quốc gia lân bang đều muốn kết thân. Năm 731, Vikrantavarman II
qua đời, con là Rudravarman II (Lutolo) trị vì đến năm 757 thì mất. Con là
Bhadravarman II lên thay nhưng bị các vương tôn miền Nam hạ bệ, chấm dứt vai
trò lãnh đạo của vương triều miền Bắc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét