Lễ Tủ Cải của dân tộc Dao Quần chẹt
Lễ Tủ Cải thường được tổ chức sau thu hoạch vụ mùa vào cuối năm cũ hay đầu năm mới là thời gian nông nhàn. Lễ không diễn ra theo thời gian nhất định mà phụ thuộc vào điều kiện của từng gia đình. Theo nghĩa Nôm Dao, Tủ là báo cáo, Cải là đặt tên, Tủ Cải tức là lễ báo cáo với các thần linh, tổ tiên về việc đặt tên thứ hai (tên âm) cho người con trai trong dòng tộc, bởi khi cúng lễ xưng tên với tổ tiên họ kiêng dùng tên thật.
Tủ Cải là lễ quan trọng nhất trong tập tục vòng đời người
con trai Dao, đánh dấu sự trưởng thành như lễ thành đinh của người Kinh trong
xã hội cổ truyền. Đồng bào quan niệm ai đã thụ lễ mới được coi là người đủ tư
cách làm các công việc trong dòng tộc, cộng đồng và tất cả những người làm thầy
mo đều phải trải qua nghi lễ này.Thường bé trai từ 8 tuổi trở lên, khi điều kiện
kinh tế gia đình cho phép đều được làm lễ Tủ Cải.
Trước ngày diễn ra lễ từ 10 đến 15, gia chủ chuẩn bị các lễ
vật, thực phẩm tùy theo nhu cầu, quy mô lễ lớn, nhỏ đồng thời mang lễ vật đến mời
các thầy cúng có uy tín trong bản chọn ngày lành tháng tốt và tổ chức lễ.
Trước khi tổ chức lễ một ngày, các thầy cúng, họ hàng thân
tộc đã có mặt đầy đủ. Thầy cả phân công các thầy cúng, những người giúp việc, họ
hàng, dân bản cùng dựng đàn lễ trong nhà (nơi ngự của tổ tiên), đàn lễ ngoài trời
(nơi ngự của các thần linh), dán sớ điệp và viết sớ báo cáo để trình báo với tổ
tiên, thần linh.
Khi công việc chuẩn bị đã hoàn tất, lễ Tủ Cải bắt đầu được
tổ chức. Trong vòng từ 2 đến 4 ngày đêm, tất cả mọi người dự lễ đều cùng ăn
chay. Lễ Tủ Cải tổ chức lớn trong vùng gồm 7 ông thầy cúng với quyền hạn và nhiệm
vụ khác nhau. Thầy cả và thầy hai là linh hồn và là người điều khiển chính
trong các lễ thức. Các thầy đọc thông viết thạo chữ Nôm Dao thuộc các quyển
sách cúng, các bài diễn ca hay các bài tế các vị thánh thần.
Mở đầu, thầy cả đọc lời tuyên bố lý do tổ chức lễ Tủ Cải. Nội
dung nghi lễ này thầy cả đề cập đến lịch sử người Dao, ai là con trai cũng phải
làm cái lý này và xướng tên những người sẽ được thụ lễ. Tiến trình lễ diễn ra
qua nhiều lễ thức khác nhau như: Lễ nhập tổ tiên, lễ báo cáo với các vị thần
linh, lễ khai đàn, lễ đặt tên âm, mời tổ tiên trong đàn lễ nghe báo cáo, nghi
thức cầu xin tổ tiên phù hộ cho gia đình người được thụ lễ (sư mới) làm ăn phát
đạt, lễ quá tăng, nghi lễ thụ đèn, lễ cấp âm binh, nghi lễ cấp cầu, lễ cấp bằng
sắc, lễ cấp đạo sắc, lễ thăm thiên đình, lễ tạ Thánh, lễ trình diện Ngọc Hoàng,
nghi lễ ngã đàn hóa kiếp, nghi lễ cúng Ngọc Hoàng, Thần Nông, lễ tiễn Bàn
Vương, nghi lễ tạ ơn và tiễn đưa tổ tiên.
Diễn trình lễ đặc biệt sinh động ở phần những người giúp việc
nhập vai tổ tiên, thần linh về nghe báo cáo, nhảy múa, ăn cỗ sum vầy cùng con
cháu và chia tay bịn rịn lưu luyến không muốn rời khi phải về trời. Hay cảnh ma
ngoài rừng vào phá lễ, bị bắt nhốt và phần kết được thả ra nhảy múa vui mừng. Lễ
thành công khiến cho người ta có thể tưởng tượng quanh ta luôn tồn tại song
hành một thế giới vô hình bên thế giới thực tại với nền tảng là lấy cội nguồn
tiên tổ, thần linh làm điểm tựa vững chắc đểvươn tới tương lai tươi sáng.
Trong phần lễ xen lẫn hội, phối hợp nhịp nhàng và có mối
quan hệ khăng khít với nhau, tạo nên không khí linh thiêng mà ấm áp tình người,
tràn đầy sự hứng khởi. Lời khấn cầu, những lời răn dạy của tổ tiên, thần linh
thông qua các thầy cúng tới sư mới hòa trong âm thanh phụ họa của tiếng chiêng,
tiếng trống không ngoài mục đích để tính thiêng của cõi tâm linh thâm nhập vào
cõi trần gian. Tất cả được diễn ra sinh động theo một quy trình khá lôgic từ
khâu chuẩn bị đến việc tiến hành các nghi lễ. Các lễ thức và cách trình diễn,
bày tỏ tình cảm ước nguyện của mình với tổ tiên thông qua các thầy cúng và người
giúp việc.
Các lễ thức diễn trình theo quy định kéo dài cho đến ngày
cuối cùng của buổi lễ vừa mang ý nghĩa giáo huấn vừa mang màu sắc tâm linh huyền
ảo, đồng thời phản ánh những ước mơ, khát vọng của con người lấy cội nguồn tiên
tổ làm nền tảng để rèn tâm, dưỡng đức.
Lễ thức quan trọng nhất trong lễ Tủ Cải là thầy cả cấp cho
người được thụ lễ một bản đạo sắc viết bằng chữ Nôm Dao, ghi về lý lịch của sư
mới, nguyên do thụ lễ và các điều răn dạy. Đạo sắc được coi là bằng chứng để sư
mới được phép thực hiện các nghi lễ trong xã hội người Dao. Tên của chàng trai
được ghi trong gia phả, sử dụng khi cúng lễ và lúc qua đời con cháu sẽ cúng
theo tên âm này.
Kết thúc các nghi lễ, thầy thư ký đọc tổng kết báo cáo trước
đàn lễ tổ tiên, báo cáo kết quả thành công của lễ, tạ ơn tổ tiên, thần linh, thỉnh
cầu cho sư mới những điều tốt đẹp. Cuối cùng gia chủ cám ơn và mời mọi người dự
bữa cơm đoàn kết, cùng nâng cốc chúc mừng sư mới.
Trải qua bao biến thiên lịch sử cùng, lễ Tủ Cải của đồng
bào đến nay vẫn giữ được bản sắc riêng luôn hiện hữu trong đời sống cộng đồng.
Lễ có tác động tích cực đến việc giáo dục thế hệ trẻ, góp phần xây đắp nên sự gắn
kết cộng đồng, bảo tồn những tinh hoa văn hóa dân tộc.
Lễ Bó khoăn khoai
Với quan niệm vạn vật đều có linh hồn, cơ thể sống chỉ là vật
biểu hiện ra bên ngoài của một tâm hồn bên trong nên người Thái trắng sau khi kết
thúc vụ mùa phải làm lễ Bó khoăn khoai (cúng vía trâu) – một lễ cảm ơn con trâu
sau khi mùa vụ đã hoàn thành, nhờ có sức kéo của trâu mà mùa vụ mới được hoàn
thành nhanh chóng, con người mới thóc lúa đầy bồ, sung túc, đủ ăn.
Con trâu có vị trí, ý nghĩa đặc biệt đối với cuộc sống của
cư dân nông nghiệp. Là cư dân nông nghiệp miền núi nhưng các cư dân Thái (Điện
Biên) sinh sống chủ yếu ở các thung lũng gần sông, suối “người Xá ăn theo
lửa, người Thái ăn theo nước”, đã tạo cho nhân dân bản địa thói quen và
điều kiện sản xuất lúa nước từ lâu đời. Câu tục ngữ “Làm nương ủ lá cây, làm ruộng
thả nước ngập luống cày”, “Làm ruộng phải lo gianh, làm ruộng phải lo giống” thể
hiện trình độ sản xuất khá cao của dân tộc Thái, do vậy để đảm bảo sức kéo cho
ruộng, nương, con trâu đối với họ có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Lễ được tổ chức như sau:
Trước hôm cúng, trâu được tắm rửa sạch sẽ, Lễ tạ ơn được tiến
hành với từng con, bắt đầu từ con trâu đầu đàn, tiếng Thái gọi là khoai tổn
lang (trâu chủ gầm), sau đó lần lượt theo thứ tự con nhiều tuổi trước, con ít
tuổi sau. Tạ ơn con nào thì kéo con trâu trước mâm cỗ cúng. Người cúng cầm sẹo
mũi con trâu và đọc bài cúng.
Đồ cúng trong lễ bó khoăn khoai gồm có: cỏ nhưng phải là cỏ
gianh hoặc cỏ lau và muối được gói trong lá chuối và được đặt lên chiếc mâm có
rải lá chuối. Lễ vật đã được bày sẵn trong mâm gồm có 1 con gà, 1 chai rượu, 4
chén rượu, 4 đôi đũa, 2 cuộn dây thừng. Mâm cúng được gia chủ mang ra sàn bên
mâng hẩ là sàn thường được dùng để làm công việc sinh hoạt hằng ngày trong gia
đình.
Sau đó con trâu được dắt từ gầm sàn ra dưới gian mang hẩ và
được buộc lại bằng dây thừng. Gia chủ cúng đại ý rằng con trâu nuôi của mình,
mình để làm ruộng, nương cho nhà mình. Có những lúc mình bảo nó không nghe, nó
làm không đúng yêu cầu của mình, lúc đó tao tức giận đã đánh đập mày, tao biết
linh hồn mày biết sẽ không vui. Hôm nay đã hết công việc đồng áng, vụ mùa đã bội
thu, tao có rượu, thịt, cỏ cho mày ăn no và mày xí xóa cho tao vì có những lúc
tao bực mà đánh mày.
Lời lẽ, ngôn từ trong lời khấn rất giản dị, mộc mạc như
chính lối sống của người nông dân miền núi, công tội rất rõ ràng. Tất cả vì mục
tiêu công việc đặt lên hàng đầu nhưng đồng thời cũng mang ý nghĩa nhân văn sâu
sắc, đề cao vai trò của lao động ngay cả đối với loài vật vô tri.
Sau khi cúng xong, trâu được cho ăn cỏ và xát muối vào mồm
trâu vì sau khi làm lễ bó khoăn khoai, gia chủ sẽ đưa trâu lên rừng để trâu tự
kiếm ăn, đỡ công phải chăm sóc trong lúc nông nhàn. Việc xát muối vào mồm để
trâu nhớ đường mà về nhà, không được đi lạc vào nhà khác. Việc chỉ cho ăn cỏ
lau và cỏ gianh vì khi vào rừng có rất nhiều loại cỏ khác nhau và trong đó
không thiếu những loài cỏ độc. Cho ăn 2 loại cỏ này để trâu nhớ mà ăn.
Sau đó gia chủ thắp nến sáp ong và gắn lên sừng trâu với ý
nghĩa sẽ soi sáng đường cho trâu, trên đường đi không gặp phải hổ dữ và vướng
vào vực sâu. Điều này phản ánh nỗi sợ hãi sâu xa của người nông dân miền núi do
trước kia rừng thiêng, nước độc, các loài thú dữ nhiều vô kể. Một điều khác so
với việc cúng vía trâu ở các nơi khác là trâu hôm sau mới được thả vào rừng còn
ở thị xã Mường Lay, sau khi cúng xong trâu được gia chủ dắt ngay vào rừng
để tự kiếm ăn. Một tuần một lần gia chủ phải vào rừng để kiểm tra trâu nhà
mình…
Lễ mừng cơm mới dân tộc Si la
Lễ mừng cơm mới của đồng bào Si La thường được tổ chức từ
cuối tháng 8 đến đầu tháng 9 (khoảng tháng 8 âm lịch) là thời gian vụ lúa đầu
mùa bắt đầu chín và được tổ chức vào ngày Thìn hoặc ngày Tỵ. Theo quan niệm của
người Si La, trong suốt quá trình sản xuất của gia đình và dòng họ luôn có sự
che chở của tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Vì vậy, khi con cháu trong dòng họ dùng những
nông sản đó không được quên ơn những người lớp trước đã truyền đạt lại kinh
nghiệm sản xuất. Người Si La sẽ lấy những hạt lúa chín đầu tiên của vụ mùa về
cúng tổ tiên trước khi thu hoạch.
Lễ mừng cơm mới là một trong những nghi lễ đặc trưng tiêu
biểu không chỉ được tổ chức tại mỗi gia đình trưởng dòng họ riêng, mà tất cả
các dòng họ trong bản đều tổ chức. Người Si La tổ chức lễ mừng cơm mới trong một
ngày tại gia đình trưởng mỗi dòng họ. Gia đình trưởng dòng họ có bàn thờ và trưởng
họ thường là người thay mặt cho cả dòng họ làm các thủ tục trong các nghi lễ
cúng bái. Sau các nghi lễ cúng mời tổ tiên, các gia đình trong họ sẽ đến dự bữa
cơm mừng cơm mới tại nhà trưởng dòng họ.
Sáng hôm tổ chức làm lễ, tất cả các gia đình trong bản cử
người tổng vệ sinh chung cho cả bản, sau đó các gia đình quét dọn nhà cửa, rửa
bát đũa, lau chùi các đồ dùng sinh hoạt trong nhà. Trong đó mâm cúng phải rửa sạch
và sửa sang nơi thờ cúng để bầy các đồ cúng. Vì người Si La quan niệm rằng khi
tổ tiên, ông bà thế giới bên kia đến hưởng thụ đồ lễ mà thấy nhà cửa, đồ dùng
không vệ sinh sạch sẽ khiến tổ tiên không thích và sẽ không phù hộ bảo vệ mùa
màng nữa.
Sau khi mọi thứ được chuẩn bị xong, đến chiều tối gia chủ bắt
đầu nấu cơm mới và chế biến các đồ lễ như con cá, con cua, con sóc, củ mài, củ
khoai… hấp cho chín, bầy lên mâm đợi khi mặt trời lặn hẳn, gia chủ (trưởng dòng
họ) tiến hành phần lễ cúng mời tổ tiên về hưởng thụ. Người Si La quan niệm khi
mặt trời lặn, đêm tối buông xuống là lúc tổ tiên trở về gần con cháu. Mâm lễ được
bày đầy đủ đồ lễ và đặt dưới bàn thờ, gia chủ (trưởng họ) thay mặt cho con cháu
cả dòng họ cúng mời tổ tiên, ông bà, cha mẹ những người đã khuất về hưởng đồ lễ
cơm mới.
Lễ cúng dưới bàn thờ xong, gia chủ cử người chuyển nguyên
mâm lễ đó đặt cạnh bếp chính bên giường gia chủ (Với người Si La chỉ có những
gia đình trưởng họ mới được làm bếp này. Bếp làm ở trong nhà, ngay cạnh cột chính
của nhà, là nơi giữ lửa ấm cho cả họ, bảo vệ che chở mọi người và là nơi chủ họ
sưởi ấm, hút thuốc). Mâm cúng có đặt thêm bát nước trắng và một ống tre cao
15cm, có đường kính miệng khoảng 8cm, bên trong ống có men rượu, trên miệng phủ
lá chuối và cắm 3 que tre, tượng trưng cho bình rượu cần.
Lúc này gia chủ bắt đầu cúng tổ tiên lần hai. Sau mỗi lần
cúng của gia chủ (trưởng họ) sẽ cho một người con cháu trong nhà cầm thìa múc lấy
lần đầu 3 thìa nước trắng vào ống, hai lần sau mỗi lần múc lấy một thìa. Khi xướng
cúng đủ ba lần là xong lễ cúng mời tổ tiên. Các đồ lễ đó có thể mang ra cho mọi
người dùng, nhưng riêng cơm mới làm đồ cúng đó phải đổ một bát riêng dành cho
con chó trong nhà ăn trước thì mọi thành viên trong nhà mới được ăn.
Sau nghi lễ cúng mời tổ tiên về hưởng cơm mới xong, tại gia
đình tổ chức lễ (trưởng họ), con cháu trong nhà cũng bắt đầu bầy mâm mời anh em
họ hàng, khách khứa trong bản đến dự bữa cơm mới và chúc may mắn cho gia đình
và dòng họ. Lễ mừng cơm mới của người Si La kết thúc trong tiếng nói cười và những
lời chúc tụng nhau trong bữa cơm liên hoan của gia chủ. Mọi người ai cũng vui mừng
trước thành quả của một vụ mùa bội thu và tin tưởng rằng sẽ rồi đây cuộc sống của
họ sẽ còn rất nhiều cuộc vui như thế. Lễ Mừng cơm mới là một nghi thức
nông nghiệp chứa đựng nhiều yếu tố văn hóa tích cực và là một phần quan trọng
trong ý thức của đồng bào Si La.
Lễ hội Thành Bản Phủ
Lễ hội Thành Bàn Phủ được tổ chức hàng năm vào các ngày 24
và 25/2 Âm lịch, tại xã Noọng Hẹt, huyện Điện Biên nhằm tưởng nhớ anh hùng
Hoàng Công Chất.
Năm 1754, thủ lĩnh Hoàng Công Chất cùng 2 vị tướng người
dân tộc thiểu số là Lò Ngải và Lò Khanh phất cờ khởi nghĩa đánh tan giặc Phẻ và
tàn quân Thái Bình Thiên Quốc do chậu Phạ Tin Tòng cầm đầu, giải phóng xứ Mường
Thanh (Điện Biên), chấn ải biên cương Tổ quốc.
Lễ hội thành Bản Phủ được tổ chức hằng năm vào ngày giỗ tướng
quân Hoàng Công Chất, là dịp để tăng cường tuyên truyền, giáo dục truyền thống
yêu nước, niềm tự hào dân tộc; khơi dậy tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc,
tình nghĩa miền ngược với miền xuôi. Lễ hội kêu gọi nhân dân các dân tộc phát
huy truyền thống, tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo. Thông qua lễ hội giới thiệu nhằm quảng bá đến du khách trong nước và
quốc tế về hình ảnh, truyền thống nghìn năm hội tụ đất và người Mường Thanh –
Điện Biên.
Lễ hội gồm hai phần:
Mở đầu phần lễ, âm vang tiếng trống oai hùng, trang nghiêm
nổi lên trong không khí tưng bừng của ngày hội. Sau nghi thức chào cờ là một
phút mặc niệm, tưởng nhớ các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh bảo vệ Tổ quốc. Chúc
văn giỗ tướng quân gồm 3 phần: nhạc đệm hùng tráng, anh linh, tiếp đến là nghi
lễ rước, dâng lễ vật và màn tái hiện lịch sử bằng sân khấu hóa.
Chỉ huy đoàn lễ rước là người đứng tuổi, trang phục uy
nghiêm, bước đi oai phong, thể hiện tình cảm quý trọng, biết ơn sâu sắc của đồng
bào các dân tộc đối với người nông dân áo vải Hoàng Công Chất và 2 vị tướng Ngải,
Khanh đã có công đánh đuổi giặc ngoại xâm. Đoàn lễ rước gồm đội múa lân, múa rồng,
đội rước kiệu mặc trang phục lễ hội. Đoàn tế lính nghĩa quân mặc trang phục
lính trận, tay cầm giáo mác chĩa lên trời. Các lực lượng tham gia cầm cờ, lực
lượng quần chúng nghiêm trang.
Màn tái hiện lịch sử bằng sân khấu hoá gồm 3 phần: bối cảnh
lịch sử, tướng quân lãnh đạo nhân dân đánh giặc, Mường Thanh được giải phóng; với
sự tham gia của các diễn viên tỉnh nhà làm nổi bật vai trò, tôn vinh người thủ
lĩnh miền xuôi cứu dân miền ngược, tinh thần đoàn kết của đồng bào Tây Bắc, diễn
tả hình ảnh đồng bào nô nức ủng hộ đánh giặc. Dàn trống, cồng chiêng, nhạc cụ
dân tộc, âm thanh hoành tráng, rộn ràng, trầm hùng và linh thiêng; cầu cho quốc
thái dân an…
Bên cạnh văn hoá tín ngưỡng truyền thống, phần hội là sân
chơi lành mạnh, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho đồng bào trên địa bàn với
đa dạng các hoạt động văn hoá, văn nghệ; trưng bày triển lãm tranh, ảnh “các di
vật của nghĩa quân Hoàng Công Chất”, thi trò chơi dân gian như: đua ngựa giết
Phẻ, kéo co, bắn nỏ, đẩy gậy, đi cà kheo, tung còn truyền thống, thi nấu ăn
nuôi quân, ẩm thực văn hoá dân tộc; Liên hoan văn nghệ với sự tham gia biểu diễn
của các đoàn nghệ thuật quần chúng. Những thiếu nữ dân tộc Thái duyên dáng, dịu
dàng trong trang phục váy đen dài chấm gót, áo cóm với hàng cúc bướm lóng lánh
ánh bạc, trên tay cầm chiếc quạt sặc sỡ, nhịp nhàng trong điều múa uyển chuyển,
đằm thắm, tạo sự lôi cuốn đối với khán giả. Vòng xoè đoàn kết là đặc trưng của
dân tộc Thái trong lễ hội.
Lễ hội Hạn Khuống
Hạn khuống là một hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống
của người Thái, Điện Biên. Lễ hội thường được tổ chức sau vụ thu hoạch vào
tháng 11 hàng năm. Lễ Hạn Khuống do bên gái tổ chức thực ra là một cuộc vui để
tìm hiểu bạn đời sau đó chia tay về nhà chồng. Chính vì vậy, Hạn Khuống đã để lại
biết bao kỷ niệm và ấn tượng đẹp của một thời trẻ trung sôi nổi.
Khi nói đến Hạn Khuống, người Thái nghĩ ngay đến nơi hò hẹn
– giao duyên bằng những lời ca thắm tình của nam nữ thanh niên Thái, một nét
sinh hoạt văn hóa cổ xưa của người Thái. Hạn Khuống làm cho trai mường, gái bản
Thái thêm yêu cuộc sống, yêu lao động sản xuất, gần gũi với thiên nhiên, vì văn
hóa của người Thái cũng bắt đầu từ tình yêu cuộc sống, bắt đầu từ phong tục, tập
quán sinh hoạt của một tộc người luôn gắn bó với núi rừng. Có thể nói, lửa sàn
Hạn Khuống sẽ thêm thắm đượm tình người khi du khách, bạn bè gần xa đến giao
duyên trên sàn Hạn Khuống vào ngày lễ hội, dịp tết đến xuân sang.
Ngoài căn nhà sàn thân quen của mình, khi tiết trời sang
xuân, khi bản mường bước vào mùa lễ hội, nam nữ thanh niên Thái cùng nhau vào rừng
đốn chặt lấy vài cây rừng về dựng một sàn ở khu đất trống giữa bản, sàn có thể
dựng bằng tre hoặc gỗ, sàn đó được gọi là Hạn Khuống nơi để nam nữ thanh niên
Thái đến khắp (hát) đối đáp. Trên sàn Hạn Khuống chuẩn bị dụng cụ cho nam thanh,
nữ tú hội tụ giao duyên; con gái Thái thì quay sợi, cán bông, dệt vải, thêu
thùa bằng chỉ màu các loại, có bếp củi để đốt lửa. Dụng cụ cho trai Thái gồm có
lạt xanh, lạt đỏ, lạt trắng để đan hom, đan giỏ, đan ớp, hoặc đan các con vật để
tặng bạn gái, người mà trai Thái có ý tỏ tình trong đêm khắp đối giao duyên. Ống
điếu và bó đóm bằng tre ngâm khô và thuốc lào. Ngoài ra còn một số vật dụng
khác để đan chải, đan vợt xúc… và các loại nhạc cụ như khèn bè, pí pặp, pí
thiu, sáo trúc, đàn tính…
Sàn Hạn Khuống dựng cao khoảng 1,2m – 1,5m, rộng chừng
0,6m, dài chừng 5m, xung quanh có lan can được trang trí hoa văn mang bản sắc
dân tộc. Giữa sàn Hạn Khuống có cây nêu bằng tre to, dài để cả phần ngọn còn
nguyên lá và trang trí các con giống đủ màu sắc gọi là “Lắc xáy chính”. Cây “Lắc
xáy chính” này mang bóng dáng của cây vũ trụ. Bốn góc sàn Hạn Khuống có 4 cây
nhỏ trang trí đẹp mắt gọi là “Lắc xáy”. 4 góc sàn đều có cầu thang lên xuống,
được gọi là “San bó Han Khuông” (Sàn hoa Hạn Khuống). Chủ thể Hạn Khuống thường
chọn những thiếu nữ Thái xinh đẹp của bản mường, có đức – tài hát đối ứng gọi
là “Xao tỏn khuống”. Bốn cô gái ngồi ở bốn góc gọi là “Xao lắc xáy”. Khi bếp lửa
trên sàn bắt đầu nhóm lên, ngọn lửa cháy rực sáng cả một góc bản mường cũng là
lúc các cô chủ Hạn Khuống rút thang lên, quay guồng xa của mình kéo sợi giăng
ngang lối lên – xuống sàn Hạn Khuống và cuộc thi tài bắt đầu. Lúc này, các
chàng trai Thái muốn lên sàn hoa thì phải thắng trong cuộc hát đối với các cô
chủ sàn Hạn Khuống. Lời các bài hát đối thường lấy trong truyện thơ Thái “Xống
chụ xon xao”, “Tản chụ xiết xương”. Khi đã vào cuộc, ngoài khắp đối ra là lời ứng
tác giữa một bên là trai Thái, một bên là các cô chủ Hạn Khuống. Lời ứng tác
tinh tế, sắc sảo thể hiện sự thông minh, tài ba của những chàng trai, cô gái
Thái.
Khi đã cảm phục tài ứng tác của các chàng trai trong hát đối,
các cô gái thả thang xuống chạm đất đưa tay níu mời các chàng trai lên sàn Hạn
Khuống. Sau khi lên Hạn Khuống, bên gái tiếp tục thử sức tài ba, lòng kiên trì,
đối đáp của bên trai là không cho ghế, bên trai lại khắp xin ghế ngồi. Cứ thế,
xin được ghế ngồi rồi lại khắp đối xin ống điếu thuốc lào… Sau một loạt các bài
khắp, các chàng trai đã vượt qua thử thách và được các cô gái đồng ý cho dự cuộc
vui đến thâu đêm. Khi chàng trai và cô gái nào để ý đến nhau, có tình cảm riêng
với nhau thì tự đến bên nhau để tỏ tình bằng những lời khắp đối ân tình, sâu lắng.
Cứ như thế, cuộc vui cuốn hút các cô gái Thái thể hiện sự kéo tay bằng việc
thêu dệt, xe sợi, cán bông không biết mỏi mệt; còn các chàng trai người thi đan
giỏ, đan hom, thi thổi sáo, đàn tính bằng những làn điệu níu kéo lòng người,
tình người.
Đêm càng về khuya, Hạn Khuống càng say nồng bởi những lời
khắp đối, bởi sự nhanh tay xe sợi, thêu, đan hom, đan giỏ của các chàng trai cô
gái Thái. Đến lúc này, những người có tuổi và trẻ em tuy vương vấn sàn Hạn Khuống
nhưng cùng lần lượt ra về vì đêm sắp tàn canh. Chỉ còn lại trên sàn Hạn Khuống
là các chàng trai, cô gái Thái vai kề vai bên bếp lửa rực hồng, lan tỏa làm cho
đôi má tuổi mười tám đôi mươi các cô chủ Hạn Khuống thêm xinh. Hạn Khuống có thể
diễn ra trong nhiều ngày, hình thức vui chơi phong phú, đa dạng như: tung còn,
múa xòe, tó má lẹ, chơi cù… Khi hoàng hôn buông xuống, sinh hoạt trên sàn Hạn
Khuống lại trở nên thắm nồng và trầm lắng lời khắp giao duyên của trai gái
Thái. Cùng với khắp đối, người đến xem có thể cất lên giọng phụ họa làm cho
không khí trong đêm Hạn Khuống càng trở lên say đắm lòng người. Hạn Khuống tan
là lúc cô chủ sàn Hạn Khuống khắp lời chia tay. Đến lúc này, không ai bảo ai, mỗi
người một tay, trai dọn đồ nặng, gái dọn đồ nhẹ và bắt đầu thổi tắt bếp lửa
sánh vai cùng nhau ra về là lúc rặng núi phía đông bắt đầu hửng sáng, Lúc đó,
cô chủ Hạn Khuống cất thang Hạn Khuống dừng cuộc vui, nhưng dư âm đêm Hạn Khuống
còn mãi với thời gian.
Sinh hoạt Hạn Khuống như có sức hút kỳ lạ nếu ta để tâm
nghe những lời khắp đối bằng những câu thơ nổi tiếng của người Thái trong tác
phẩm “Xống chụ xon xao” được người Thái Tây Bắc lưu truyền, diễn xướng qua nhiều
thế hệ và đón nhận trường ca đó bằng cả tình cảm nồng thắm, thiết tha. Chính vì
lẽ đó, Hạn Khuống là nét văn hóa mang đậm giá trị tinh thần trong đời sống thường
nhật, biểu trưng tình cảm của người Thái. Khắp đối giao duyên trên sàn Hạn Khuống
là sự kết tụ văn hóa Thái Tây Bắc, mà ở đó khởi nguồn từ cuộc sống và được biểu
hiện nét sinh hoạt văn hóa tinh thần đầy cảm xúc của người Thái. Sinh hoạt văn
hóa trên sàn Hạn Khuống làm con người thêm yêu cuộc sống, nhìn cuộc sống tốt đẹp
hơn, cuộc sống tràn ngập tình nghĩa, tính bao dung và lòng nhân ái.
Hội mừng mưa rơi của dân tộc Khơ Mú
Người Khơ Mú gọi hội mừng mưa rơi của dân tộc mình là lễ hội “Om đin om đang”, tức lễ hội mừng nước hay hội mừng
mùa măng mọc. Theo các cụ già ở bản Pá Bon, xã Mường Luân, Điện Biên Đông, gọi
như vậy bởi mở đầu phần hội bao giờ cũng là điệu múa “Om đin om đang”. Hội mừng
mưa rơi được tổ chức vào cuối tháng 3, đầu tháng 4 âm lịch, trước hoặc sau những
cơn mưa đầu mùa.Trong lễ hội, người ta hát những bài ca mừng nương rẫy khi được
đón những cơn mưa đầu mùa. Lễ hội thường được tổ chức trên nhà sàn và thầy cúng
là người chủ trì phần lễ.
Để chuẩn bị cho lễ hội, người trong bản ốp bẹ chuối vào cột
nhà để làm cây hoa chủ. Cây hoa chủ gồm 3 – 5 lớp. Các lớp cành đều treo hình
chim, thú, hoa quả được đan bằng lạt giang hoặc mua ở các chợ. Bàn thờ cúng thần
linh được đặt ngay dưới cây hoa. Trên bàn thờ bày các lễ vật gồm: đĩa gà luộc,
bánh chưng, bánh dày, xôi nhuộm phẩm đỏ, trứng, mía, gạo, muối… Tiếp đến, thầy
cúng mặc trang phục dân tộc gồm: áo đen, chít khăn đen, thắt lưng đỏ (ngày nay
chỉ còn mặc áo đen) đọc lời cầu cho người trong bản có sức khoẻ tốt, gặp nhiều
may mắn; cầu xin thần linh cho mưa thuận gió hòa, xua đuổi chim thú phá hoại
mùa màng… Vừa đọc lời cúng, thầy vừa lấy nhúm gạo, muối, rượu tung ra xung
quanh và thả xuống sàn.
Sau phần lễ, phần hội diễn ra sôi nổi với những điệu múa
truyền thống của dân tộc Khơ Mú. Từ lễ hội mừng mưa rơi, nhiều lời ca của dân tộc
Khơ Mú đã được các nhạc sỹ chép lại, phổ biến rộng trên các phương tiện thông
tin đại chúng.
“Mưa rơi cho cây tốt tươi
Búp chen lá chen cành
Rừng đẹp trăm hoa rung rinh theo gió
Trên nương hương thơm nếp vàng
Măng cười hé vươn lên cùng
Ngọt ngào hương thơm bay bay theo gió
Những chim nướng cùng bếp thơm
Nhìn mà no…
Đặng Hải Quân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét