Người
Tày là một trong 22 tộc người sinh sống ở Tuyên Quang và là tộc người có dân số
đông thứ hai sau người Kinh tại đây. Người Tày ở nơi đây có nền văn hóa vô cùng
phong phú và đa dạng. Do những nguyên nhân khác nhau mà các giá trị văn hóa của
tộc người Tày đang dần mai một.
Chính
vì vậy, việc bảo tồn và phát huy văn hóa tộc người luôn được quan tâm hàng đầu
trong các chính sách và quy định của nhà nước.
Thôn
Tân Lập xã Tân Trào huyện Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang có 153 hộ với
654 nhân khẩu, có 4 tộc người là Tày, Nùng, Dao và Kinh cùng sinh sống. Người
Tày nơi đây có một đời sống văn hóa rất phong phú và đa dạng. Đối với văn hóa tộc
người nghi lễ và lễ hội luôn là rào chắn tốt nhất để bảo vệ bản sắc văn hóa, giữ
gìn phong tục tập quán và nếp sống tốt đẹp của cộng đồng. Các nghi lễ, lễ hội
dân gian thường được phân theo hai hệ thống: Lễ nông nghiệp và nghi lễ vòng đời
người. Trong đó các nghi lễ có liên quan đến vòng đời người ở nơi đây rất được
bà con coi trọng vì nó gắn liền với đời sống văn hóa của đồng bào. Các nghi lễ
liên quan đến vòng đời người bao gồm từ khi sinh ra, trưởng thành, lên lão và
chết đi. Các nghi lễ này được diễn ra một cách trang trọng và mang đậm tính
nhân văn cao cả. Dưới đây chính là những ghi chép tìm hiểu về các nghi lễ liên
quan đến vòng đời người của người Tày nơi đây.
Các
nghi lễ vòng đời người:
1.
Nghi lễ khi con người được sinh ra:
* Lễ
Khế Khoẳm: “Pà đẩy chít pướn”. Mang thai được 8 tháng gia đình bắt buộc phải
làm lễ này cho con dâu đang mang thai. Lễ này không chỉ quan trọng đối với sinh
mệnh của hai mẹ con mà còn liên quan đến danh dự của gia đình trong cộng đồng.
Bởi theo quan niệm của người Tày, khi mang thai vía của người phụ nữ ít nằm
trong cơ thể. Nó hay đi rong chơi khắp mọi nơi như đi bắt cá ở suối, đi xúc tép
ở ao “khoăn tăm cháy, khoăn tăm thum”, đi lên rừng chặt củi, hái măng. Nó
phải đi qua đủ 12 con suối và ao, cho nên phải mời thầy về gọi vía “khế khoẳm”,
đánh thức vía quay tở về với cơ thể bà mẹ để chuẩn bị cho kỳ khai hoa. Hơn nữa,
gia đình này không tổ chức lễ này cho con đều bị cộng đồng lên án là keo kiệt,
họ trách gia đình bố mẹ đẻ của cô dâu mắt đã không “sáng” gả con cho gia đình bạc,
ác.
* Lễ
Ma Nhét (lễ đầy tháng): Người Tày làm lễ Ma Nhét cho cháu bé là con trai vào
ngày thứ 25 tính từ ngày sinh và cho bé gái vào ngày thứ 30. Ngày lễ mang ý
nghĩa là mừng cháu bé khỏe mạnh, hay ăn, chóng lớn, mừng phúc đức của gia đình
và báo với bà mụ (Mẻ Bióoc) biết là đứa con của Mẻ Bióoc ban cho đã ra đời, được
khỏe mạnh, ghi công ơn của Mẻ Bióoc đã nhân từ ban phúc và cũng xin Mẻ Bióoc tiếp
tục phù hộ, bảo vệ, chở che đứa trẻ ngày càng chóng lớn và trưởng thành.
* Lễ
sinh nhật (lễ đầy năm): Trong lễ đầy năm, gia đình sửa soạn mâm cúng trong đó
có sách, bút, gương lược, que thêu đặt trước đứa trẻ, nếu em bé cầm thứ gì trước
tiên thì qua đó sẽ đoán trước được tính cách của đứa trẻ này.
2.
Nghi lễ cưới xin (gồm 6 bước):
* Lễ
dạm hỏi (Phẩy sam lùa): Nhà trai xin ngày, tháng, năm sinh của cô gái. Buổi dạm
hỏi nhà trai, nhà gái đều dùng từ ngữ hình tượng, tế nhị để ướm hỏi, trả lời.
Sau đó nhờ thầy tử vi xem số mệnh của cô gái có hợp với chàng trai không.
* Lễ
trầu cau (tặt mèo): Nhà trai nhờ một người nam giới trong họ có uy tín sang nhà
gái bàn việc trăm năm cho đôi trẻ. Tại lễ này, nhà trai xin bản lục mệnh của cô
gái được ghi chép cẩn thận trên giấy hồng điều đủ 12 cung như cung bản mệnh,
cung phụ mẫu, cung tử túc...... Khi bản lục mệnh của cô gái đã trao chính thức
cho nhà trai thì coi như hai bên đã công nhận sự đính hôn của đôi trẻ. Nếu sau
nay, vì một lý do nào đó, hai bên không cưới gả con cho nhau được thì nhà trai
phải trả lại tấm giấy lục mệnh cho nhà gái, kèm theo gánh lễ vật để nhà gái mời
khách đến dự lễ hủy bỏ lễ dạm hỏi trước đây và sau đó cô gái mới được quyền nhận
lời lấy người khác.
* Lễ
kê khai (Pheo kê khai): Lễ kê khai thường được diễn ra trước lễ cưới 2 đến 3
tháng để hai gia đình có thời gian chuẩn bị chu đáo cho hôn lễ. Nhà gái sẽ mời
họ hàng đến bàn bạc về lễ thách cưới, sau đó sẽ trao cho nhà trai một bản kê
khai các lễ vật cần mang đến.
*
Đám cưới (Đảm bái): Trong ngày cưới, cô dâu mặc quần áo dài màu trắng, chú rể mặc
một đôi áo dài, áo chàm mặc ngoài, áo trắng mặc trong. Đoàn đón dâu gồm chú rể,
một phù rể (Khương pậu), hai quan làng, hai bà đón dâu (già lặp) cùng hai người
gánh đồ lễ. Trong đám cưới mọi người giao tiếp chủ yếu bằng cách hát quan làng
(hát đối), ví dụ như hát chào hỏi
“Tôi
ở bản nhỏ đi đến đây
Nghe
tin bản lớn có giống tốt
Tôi
đến nhà xin được mang về
Để
nhà tôi sinh sôi giống nòi...”
hát
cảm ơn, xin trải chiếu, mời trầu... Nghi lễ trong đám cưới của người Tày khá cầu
kỳ nhưng vì quan niệm của họ là thiếu nó, cô dâu chú rể sẽ khó có được một cuộc
sống hạnh phúc. Nếu làm cho gia tiên và các vị thần phật lòng, không chỉ những
người trong nhà gặp phải những điều xui xẻo mà việc sinh nở, hay cuộc sống gia
đình của cô dâu sẽ không tránh khỏi những bất trắc.
Một
trong những nét khá đặc sắc trong đám cưới của người Tày đó là nghi lễ cúng vải
xô và vải đỏ. Tấm vải này con rể tặng mẹ vợ, nhưng không phải để mẹ dùng ngay.
Nó được đặt trên bàn thờ hoặc cất giữ cho đến ngày mẹ của cô dâu không còn nữa
và khi mất người ta sẽ chôn mảnh vải này theo thi hài của mẹ vợ. Nghi lễ này thể
hiện tính nhân văn cao, nó vừa thể hiện lòng biết ơn của con rể, vừa là sự tôn
kính công nuôi dưỡng sinh thành của người phụ nữ Tày.
* Lễ
lại mặt (Tèo lòi): Ba ngày sau, đôi vợ chồng mang lễ lại mặt đến nhà gái. Tới
nhà chú rể phải tự tay nấu 4-5 mâm cơm cảm ơn họ hàng nhà gái và để một lần nữa
nhận biết họ hàng. Kết thúc buổi lễ lại mặt, đôi vợ chồng trẻ mới được động
phòng và bắt đầu cuộc sống lứa đôi. Ý nghĩa của lễ lại mặt là để gia đình nhà
gái yên tâm họ đã gả con cho người có thể nhờ cậy.
Đám
cưới của ngườ Tày với những nghi lễ chặt chẽ thông qua làn điệu hát quan làng để
đối đáp, giao tiếp là một truyền thống tốt đẹp, giàu tính nhân văn. Ẩn sâu
trong những lời lẽ bình dị, khiêm nhường là những ý tứ sâu xa, sắc sảo, chứa đựng
tính giáo dục sâu sắc. Thông qua làn điệu quan làng, thanh niên nam nữ dân tộc
Tày một lần nữa được thấm nhuần hơn nữa vào ý thức cộng đồng, hiểu được trách
nhiệm đối với gia đình và khát vọng vươn lên, sống tốt hơn, đẹp hơn trong cuộc
sống. Đám cưới chính là sự thừa nhận của hai cộng đồng, bản làng đối với cuộc
hôn nhân của hai đôi nam nữ.
3.
Nghi lễ mừng thọ (Pủ Liềng hoặc pủ Lường)
Thông
thường bắt đầu từ tỏi 49 con người đã có những biểu hiện của tuổi già như mắt
kém tinh, răng kém chắc, tóc điểm bạc,... Sở dĩ có những biểu hiện về sức khỏe
trên, người ta cho rằng bịch gạo mệnh đã úa vàng... Nên phải tổ chức lễ pủ liềng,
bổ thêm lương cho bịch gạo mệnh được đầy, bắc lại cây cầu cho vững chắc, trồng
lại cây mệnh xanh tươi... ý nghĩa của lễ là trình xin gia hạn thêm cho đương sự
sống ở trần gian một thời gian nữa. Nghĩa là bổ thêm lương vào bịch gạo mệnh.
Được giành cho người cao tuổi, tổ chức nhiều vào dịp xuân trong năm. Có 6 nghi
lễ được diễn ra trong lễ mừng tọ của người Tày. Đây là một trong những sinh hoạt
văn hóa truyền thống tốt đẹp, thể hiện sự quan tâm của con cháu và cộng đồng đối
với người cao tuổi.
* Dựng
lương (tẳng lường): Người ta dựng một chiếc lầu váng để đựng gạo và tiền do con
cháu mang đến.
*
Chuyển lương: Bà then niệm chú vào thúng gạo rồi xúc gạo vào bát kèm theo vàng
mã và ít tiền lẻ đưa cho co cháu truyền tay nhau đổ vào lầu váng.
*
Dâng rượu đốt đèn: Ông, bà ngồi bên lầu váng, con cháu dâng rượu, thầy tào, bà
then đọc lời cầu các thần chứng giám. Hết một chầu hát then, các con thứ vái rồi
rót rượu trước lầu. Kế đó người ta đốt đèn tượng trưng tinh anh phát sáng, tinh
thần minh mẫn.
*
Hoàn phúc: Lầu váng đã đầy gạo số lượng dư trong thúng lẫn với những đồng tiền
được thầy tào, bà then ban lại để cho con cháu coi như lộc của ông bà, bố mẹ.
Tôi
đại diện cho Pú Mú
Được
chọn cử xuống khiêng gạo lương
Bịch
này tạo ngàn xuân không hỏng
Nhờ
Pú Cấy đón lấy
Đóm
lên đến chốn đại an
Đưa
lên đến chốn đại cát
Trời
mưa không ướt
Sấm
sét không rung
Mối
cũng không xông
Sâu
cũng không cắn
Tứ
quý hũ gạo vững bền
*
Làm lường (buộc lương): Anh con rể lần lượt dùng ba sợi chỉ ba màu se sẵn buộc
lầu váng vào cây thượng lương để xin cho ông bà được sống lâu.
* Trồng
cây mệnh: Cây mai hoặc cây chuối được tượng trưng cho sức khỏe của ông bà sẽ được
mang ra vườn trồng và chăm sóc chu đáo.
4.
Nghi lễ về tang ma
Theo
quan niệm của người Tày, con người sinh ra có linh hồn. Song để linh hồn người
chết được siêu thoát, trở về đoàn tụ với tổ tiên ở bên kia thế giới thì làm ma
chay càng có ý nghĩa quan trọng. Tục ma chay của người Tày đã có từ xa xưa, đây
là nghi lễ mang đậm tính tín ngưỡng tôn giáo. Làm ma chay cho người chết
là sự báo hiếu của người sống đối với người chết, hay tỏ rõ công ơn sinh thành
dưỡng dục với đạo lý truyền thống “uống nước nhớ nguồn” đã có từ lâu đời. Tập tục
ma chay là lĩnh vực thuộc cõi tâm linh nhằm thỏa mãn nhu cầu tình cảm con người
với con người, là sự thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu với người quá cố. Người
Tày có hai nghi lễ làm ma cho người đã khuất, đó là đưa tang (làm ma tươi) và
dâng nhà xe (làm ma khô). Trước đây do điều kiện kinh tế còn khó khăn nên đồng
bào thường làm ma khô (nhang phi héo) khi có điều kiện.
*
Làm ma tươi (khi trong nhà có người vừa chết):
Khi
gia đình có người chết con cháu phải nhịn ăn đến khi khâm liệm xong. Khi liệm,
người chết được quấn vào một đến hai tấm vải trắng tự dệt trải ít tro bếp sạch
tượng trưng cho phân, một ít lúa nếp đốt cháy tượng trưng cho lúa giống chia
cho người chết bên dưới, đầu kê gối, đặt nằm trên chiếc chiếu đã được cắt một
góc để lên bàn thờ. Khi đưa tang (pây vậy) các con thay nhau 3 lần chạy lên
phía trước để nằm xuống cho quan tài đi qua với ý nghĩa trải đường cho cha mẹ
đi. Khi quay trở về con cháu không được khóc. Thầy cúng ở lại sau cùng để làm
các thủ tục cúng yên mộ, không cho vong quay trở về theo con cháu. Một năm sau
làm lễ tháo tang (phiết khăn). Trong lễ tháo tang gia chủ mời thầy, mời con
cháu mổ lợn, cúng ở nhà và làm xe bé để đốt ở mộ. Trong một năm đó, ngày nào
cũng làm cơm, đặt lên bàn thờ mời người đã khuất. Sau lễ tháo tang, chuyển bài
vị người đã khuất lên nhập vào bát hương tổ tiên.
*
Nghi lễ làm ma khô (nhang phi héo): Diễn ra trong 3 ngày, các nghi lễ chính
trong cúng ma khô của người Tày không có quan tài và tử thi mà chỉ mang tính tượng
trưng.
Lễ
thỉnh pò tào (mời tổ sư) thầy cà (pèng) làm lễ để mời các tổ sư về nhập đàn
cúng và xin âm binh làm lễ cúng ma khô.
Lễ
thự nặm (lễ mua tước): Mua tước để rửa bài vị cả người chết.
Lễ đọc
thò (đọc thư): Là lễ đọc tên con cháu (đọc tiệp) để thông báo với người đã khuất
có bao nhiêu con cháu trong gia đình đã về để dự lễ.
Lễ
khâm liệm và lễ chổng xe (nhập nhà táng): Là nghi thức rất quan trọng thể hiện
sự tôn kính, xót thương của những người còn sống đối với người đã chết
Lễ
chằm tiệp (mời vong về ký lá thư): Đây là nghi lễ thể hiện lòng hiếu thảo của
con cháu đã làm nhà xe mới gửi xuống cho vong hồn người chết nơi chín suối.
Lễ
phá ngục chuộc vong (phú nhục): Cứu vong ra khỏi địa ngục giúp cho vong có thể
hồi sinh lại
Lễ
tràn dầu (đàn dầu): Con cháu chịu những hình phạt thay cho vong dưới âm phủ
Lễ đại
tế: Là nghi lễ thể hiện lòng báo hiếu của con cháu đối với cha mẹ
Lễ
tè phi (xua đuổi tà ma): Thầy tào đi vòng quanh chung nhà để xua đuổi tà ma
Lễ
pông xe (đốt nhà xe): Để cho linh hồn người chết được trở về với tổ tiên
Ngày
nay khi du lịch đang ngày càng phát triển thì việc khai thác các giá trị văn
hóa tộc người phục vụ cho du lịch đang được quan tâm. Các phong tục, lễ hội,
trang phục cổ truyền, sinh hoạt văn hóa trong đám cưới, ma chay, cũng như các
nghi lễ trong vòng đời người mang một giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc
Việt nam.
Minh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét