Người Nùng mượn từ các hiện tượng tự nhiên: mây, gió,
ngày, giờ, tháng, năm, trăng, sao… đến các hiện tượng xã hội làm đề tài để làm
thơ (Sli). Người Nùng dùng Sli để chỉ toàn bộ dân ca trữ tình của họ, tương tự
người Tày dùng từ Then để chỉ hầu như toàn bộ dân ca của mình. Điểm độc đáo là
hát Sli không cần nhạc cụ,
vũ điệu, người ta có thể hát bất kỳ chỗ nào, lúc
nào, miễn là có đối tượng để hát đối, hát cùng hoặc là đối tượng được hướng tới
để hát. Hát Sli có thể diễn ra ngoài trời hoặc trong nhà. Một cuộc hát Sli thường
tổ chức hát đối đáp giữa chủ và khách; có thể hát trong nhiều đêm, mỗi bên ít
nhất có 2 người hát. Người Nùng rất mê hát Sli. Tục ngữ Nùng có câu: “Đêm ốm
dài, đêm Sli ngắn”.
Sli giống thể loại hát ví của đồng bằng Bắc bộ, hát giao
duyên của quan họ Bắc Ninh; lúc tiễn biệt, lời hát rất du dương, tình tứ: Đôi
ta Sli hát đến tàn canh/ Cùng nhau Sli hát đến lòng thành/ Sáng ra tạm biệt đi
mỗi ngả/ Yêu em tan nát cả lòng anh.
Các làn điệu Sli ở mỗi nhóm người của dân tộc Nùng có nét
độc đáo riêng. Người Nùng Cháo có Sli Slình Làng; người Nùng Giang có Sli
Giang; người Nùng Phàn Slình có nhì hau, soong hàu còn gọi là Sli Nùng Phàn
Slình... Cũng như Sli của các nhóm Nùng khác, Sli Nùng Phàn Slình có không gian
diễn xướng rất phong phú: hát trong lao động; hát trong nghi lễ và các phiên chợ;
hát trong sinh hoạt gia đình và các cuộc rượu... Mỗi không gian diễn xướng có
các hình thức khác nhau. Trong phạm vi bài viết sẽ làm rõ hình thức hát trong
đám cưới và hát giao duyên đối đáp của Sli Nùng Phàn Slình ở tỉnh Lạng Sơn.
Hát trong đám cưới
Theo quy định, chỉ có phù dâu, phù rể mới được hát trong
đám cưới. Vì vậy, ngoài những ưu điểm về ngoại hình, phù dâu, phù rể phải hát
hay và thuộc nhiều bài hát để giành phần thắng khi đối đáp. Chính vì vậy, các
ông mối, bá mè đại diện nhà trai, nhà gái tham dự cuộc hát đối đáp giữa hai họ;
con trai, con gái Nùng Phàn Slình đều tìm cách học các bài Sli, Lượn để làm vốn.
Đó cũng là môi trường để người Nùng nói chung, người Nùng Phàn Slình nói riêng
bảo tồn kho tàng văn học độc đáo và phong phú của dân tộc.
Khi đoàn đón dâu đến, để chắn lối đi, cổng nhà gái đặt sẵn
chiếc ghế băng dài, một chiếc bàn nhỏ. Trên bàn đặt chai rượu, ấm trà và 4 cái
chén. Có người đợi ở đó và cuộc hát Sli đối đáp bắt đầu. Nội dung bài hát là
xin vào cửa, trao lễ, mời nước, mời rượu... nhà trai muốn vào đón dâu phải thắng
nhà gái trong đối đáp. Nếu cuộc hát diễn ra quá lâu, nhà trai không hát được,
phải xin chịu thua, nhà gái mới cho vào.
Vào đến cửa, phù rể lại hát một bài hỏi thăm mọi
người và khi muốn làm bất kỳ việc gì cũng phải hát để xin phép. Hát Sli tiếp tục
được tiến hành trên đường rước dâu cho đến khi về đến nhà trai. Đêm là khoảng
thời gian hát dành cho thanh niên nam, nữ, tập trung vào chủ đề tình yêu đôi lứa.
Cuộc hát cứ thế diễn ra đến khi đám cưới kết thúc.
Qua từ ngữ, hình ảnh, giai điệu, lời ca của Sli thể
hiện lời chào hỏi ân tình, chứa chan tình cảm tốt đẹp giữa 2 họ bằng nhiều hình
ảnh sinh động, “phần nhiều tươi vui và lịch thiệp trang nhã”, mong sự cảm thông
và lượng thứ: Tới mệt thì uống nước chè/ Tới mệt thì uống rượu/ Uống
vài chén chè cho đỡ mệt/Uống một vài chén rượu thì đi ngủ; hoặc: Bá mè ơi/Chén
rượu này uống chia đôi/Cùng uống để nhớ mãi không quên/Có điều gì sơ xuất xin
thông cảm/ Nên nói ra những điều hay điều tốt/ Để người khác còn dám đến nơi
đây.
Hát giao duyên đối đáp tự do
Mùa xuân đến. Trai, gái dân tộc Nùng náo nức trẩy hội,
hát Sli để kết giao bè bạn hoặc tìm người yêu. Khắp các ngả đường vào chợ, trên
các đồi sim, đồi cây bay bổng ngân nga tiếng Sli hòa quyện cùng gió xuân. Nhiều
người đã có gia đình cũng tham gia chỉ vì mê tiếng hát của ai đó hoặc gặp lại
người yêu cũ làm cho hội hát thêm đa dạng, phong phú sắc màu tình cảm.
Sli giao duyên đối đáp nam nữ do 2 đôi trai gái thể hiện,
nhưng số người tham gia mỗi bên có thể lên đến hàng chục người. Hát ở chợ tình
không có bài cụ thể mà mang tính ngẫu hứng, hát đến đâu ứng tác đến đó nên người
hát không chỉ có giọng trong vang, thánh thót mà còn phải có tài sáng tác, ứng
khẩu để theo kịp diễn tiến của cuộc hát đối đáp.
Khi hát, mỗi bên đều phải hát 2 câu liên tục hoặc một đoạn
ngắn, dài khác nhau. Độ dài phụ thuộc vào nội dung, nhưng thường có 4 hoặc 6
câu. Mở đầu cuộc hát là những lời chào hỏi, gọi nhau, rủ nhau cùng hát.
Lúc đầu là chào hỏi, nhưng khi cuộc hát thực sự bắt đầu
thì câu chuyện của từng đôi, từng tốp chỉ xoay quanh chủ đề tình yêu. Kết thúc
cũng là lúc từng tốp nam nữ tách ra tìm hiểu và thổ lộ tình yêu với nhau. Cái
hay của Sli đối đáp là ở chỗ ứng khẩu ngẫu hứng, nhưng bằng chất liệu phong phú
của các hiện tượng tự nhiên, xã hội mà lời ca chứa đầy nỗi niềm tâm sự và thấm
đẫm chất trữ tình, theo dòng cảm xúc của tình yêu đôi lứa. Với hình thức đối
đáp, đòi hỏi sự ứng tác tức thời, người ta đánh giá được sự thông minh, nhạy
bén và cung bậc tình cảm của bạn hát, thông qua việc bạn hát sử dụng ngôn ngữ,
hình ảnh so sánh đầy chất gợi hình.
Chàng trai: Đến đây ta có đôi lời tâm sự/ Nhưng lại sợ
đem phiền cho bạn
Cô gái: Tuy khó nói nhưng hãy cùng tâm sự/ Như mạ gặp nước
như lúa gặp mây
Chàng trai: Trông nàng vừa đẹp lại vừa xinh/Quả ngon lòng
ngậm ngùi nhớ mãi
Cô gái: Rừng xanh xuất hiện đôi măng trúc/ Ruộng tốt xuất
hiện bông lúa vàng
Cũng giống như hát ví ở đồng bằng Bắc Bộ vừa kín đáo, vừa
mang tính dò hỏi, gợi mở nhằm tìm cho mình một cơ hội để kết ngãi trăm năm, người
Nùng cũng ý tứ, thăm dò rất ý nhị:
Nam: Rau cải trong vườn rau cải non/ Đã có người nào định
hái chưa.
Nữ: Rau cải trong vườn rau cải cây/ Người nào ăn được thì
sẽ ăn.
Từ những buổi hát ấy, biết bao đôi trai gái đã yêu nhau
và hạnh phúc đến trọn đời. Đối với những cặp đôi lỡ dở, người Nùng Phàn Slình
chẳng bao giờ trách nhau, chỉ ngậm ngùi li biệt và coi nhau như tri kỷ. Những dịp
lễ hội hay chợ tình là cơ hội để họ gặp lại, tâm sự, thăm hỏi nhau qua làn điệu
Sli vừa mang tính nghệ thuật, vừa thấm đẫm chất nhân văn. Những buổi hát ấy như
làn gió mát xua đi sự éo le của số phận. Sau những cuộc hát, họ thương quý nhau
hơn, có nhiều bạn bè hơn, lạc quan, yêu đời hơn, tin tưởng vượt lên khó khăn
trong cuộc sống.
Trong dân ca Sli, hai nhân vật đối đáp không chỉ là chàng
trai, cô gái mà còn được hiểu là giữa chủ và khách. Điều này thể hiện rõ nhất ở
hình thái giao lưu đêm dài được diễn ra vào buổi tối và ban đêm mùa xuân ở một
làng nào đó. Chủ không chỉ là chủ nhà, mà là cộng đồng dân bản sở tại, còn
khách là những người ở bản khác, xã, huyện khác thậm chí tỉnh khác ở trọ hoặc
ghé thăm. Nếu Sli giao duyên đối đáp không có bài cụ thể thì ở hình thái này có
bài cụ thể và được hát theo 3 trình tự rõ ràng. Theo các nghệ nhân hát Sli ở Lạng
Sơn, hình thái này có khoảng 500 bài. Nội dung bài hát phong phú mang tính tổng
hợp: chào hỏi, chúc tụng; tình yêu, cuộc sống hàng ngày, truyện cổ tích, tình
yêu quê hương đất nước... Cuộc hát có thể kéo dài 1 đêm và nhiều nhất là 3 đêm.
Đây là hình thức vừa mang tính giao lưu kết bạn, vừa là cuộc so tài. Cố vấn của
cuộc hát là các già làng tài năng, kinh nghiệm, có khả năng phân tích đúng,
sai, hay, dở cho mỗi đội.
Người Nùng nói chung và người Nùng Phàn Slình nói
riêng rất thích hát và nghe hát Sli. Bằng ngôn ngữ trí tuệ, giàu hình ảnh, tình
yêu mênh mông, Sli không chỉ miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ, khỏe khoắn, tỏa ánh sáng
diệu kỳ, tươi mới của thiên nhiên, quê hương, đất nước mà còn “ca ngợi những
con người đẹp như những bông hoa và tự do như những cánh chim bay”. Đáp ứng yêu
cầu của thời đại, không dừng lại ở góc độ truyền thống, các nghệ nhân Sli đã cố
gắng sáng tác thêm nhiều bài mới với nội dung phong phú: Ca ngợi Đảng; Lãnh tụ;
anh hùng dân tộc, quê hương đất nước; chống tệ nạn xã hội...
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tỉnh Lạng
Sơn đã chỉ đạo ngành Văn hóa có chiến lược bảo tồn và phát huy vốn văn hóa quý báu,
trong đó có nghệ thuật dân gian Sli đặc sắc của người Nùng nói chung, người
Nùng Phàn Slình nói riêng. Tuy vậy, thế hệ nghệ nhân hát, hiểu sâu sắc và tâm
huyết với Sli phần nhiều tuổi đã cao, lớp trẻ ít mặn mà với văn hóa truyền thống,
dẫn đến nguy cơ mai một văn hóa dân tộc.
“Để giữ hồn cho dân tộc Nùng” (lời bà Hà Mai Ven- Nghệ
nhân hát Sli tỉnh Lạng Sơn), cần tuyên truyền, vận động, biên soạn giáo trình mở
các lớp truyền dạy cho thế hệ trẻ, vì đây là lớp người kế cận lưu giữ và phát
huy các làn điệu Sli.
Tài liệu tham khảo:
- Vi Hồng (2001), sưu tầm, biên soạn, “Thì thầm dân ca
nghi lễ”. NXB Văn hóa dân tộc.
- Vũ Ngọc Phan (2004), “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt
Nam”, NXB Văn học.
Phan Thị Hiên
Thu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét