HÔN NHÂN TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI NÙNG PHÀN SLÌNH (Đàm Minh Phượng)

Hôn nhân là mối quan hệ xuất phát từ lợi ích của gia đình, dòng họ, sau đó mới đến hạnh phúc của đôi trai gái. Trải qua bao thế hệ, cưới xin của người Nùng Phàn Slình đã trở thành phong tục, mang bản sắc riêng với những quy định thống nhất về nghi lễ và phương thức tổ chức nhất định. Ngày cưới không chỉ quan trọng với đôi trai gái, nó còn có ý nghĩa là cha mẹ đã làm tròn nghĩa vụ, trách nhiệm nuôi dạy con cái trưởng thành.

Tiêu chí lựa chọn bạn đời
Tiêu chuẩn lựa chọn một người vợ lý tưởng gồm có: tính tình, khả năng lao động, sức khỏe, biết quản lý công việc trong nhà và đặc biệt là tài xe chỉ, dệt vải. Công việc chính của người phụ nữ là làm tất cả những sản phẩm của nghề dệt như quần áo, chăn (mặt phà), gối đệm... một cách khéo léo. Khi lựa chọn chàng rể, người ta thường lưu ý đến sức khỏe, khả năng lao động, cày bừa thành thạo, săn bắn giỏi, biết làm mộc, chăm chỉ làm ăn, giỏi nghề rèn và đạo đức tốt. Tóm lại, người chồng biết làm mọi việc, làm chủ gia đình sau này sẽ được mọi người coi trọng.

Trong xã hội truyền thống, độ tuổi kết hôn thường rất sớm, nữ trung bình từ 15 đến 17 tuổi, nam từ 14 đến 16 tuổi. Và, hôn nhân thường diễn ra sớm hơn do việc so lá số, dạm hỏi đã được làm từ nhiều năm trước. Họ cho rằng, con cái từ 15 tuổi trở lên đã là người lớn, các chàng trai, cô gái bắt đầu cảm nhận được tình cảm của người khác giới.

Trong quá khứ, người Nùng Phàn Slình bị chi phối bởi chế độ gia đình phụ quyền gia trưởng, việc nhân duyên hoàn toàn do cha mẹ quyết định. Do vậy, hôn nhân không hoàn toàn dựa trên sự hiểu biết và tình cảm thương yêu nhau của đôi trai gái, mà bị quy định bởi những quan hệ gia đình, xã hội. Những tính toán về kinh tế, địa vị xã hội, về số mệnh vẫn còn hiện hữu sâu sắc trong suy nghĩ của họ, chính vì thế, trong nhiều trường hợp, kết hôn là do bố mẹ kén chọn. Tiêu chuẩn chọn vợ, chọn chồng phải xứng đáng với đẳng cấp của dòng họ, địa vị của gia đình. Nhiều khi thịt, rượu, bạc trắng... là những vật để định giá người con gái khi được gả bán, vô tình họ đã trở thành vật phẩm thương mại.

Nguyên tắc hôn nhân
Quy tắc cơ bản trong hôn nhân là phải xác định được lượt lài, đúc lượt (máu mủ) với nhau hay không. Nghĩa là thành viên trong dòng tộc, tính theo huyết thống phía cha là 5 đời, tuyệt đối không được phép lấy nhau. Ai vi phạm quy tắc này sẽ bị coi là mắc tội loạn luân, bị cộng đồng lên án quyết liệt, bị trị tội và phải làm lễ tạ tội với tổ tiên, đôi khi còn bị đuổi ra khỏi nhà và đôi trai gái đó sẽ không được họ hàng công nhận là con cái trong dòng họ. Những trường hợp kết hôn cùng họ, khác chi dù không bị cấm đoán hoàn toàn, nhưng cũng không được khuyến khích.

Người Nùng Phàn Slình thường dựa vào gia phả để xác định những người có cùng họ nội không bao giờ được lấy nhau, trừ những người họ xa, khác chi. Chính vì thế, mỗi dòng họ đều có gia phả, ghi đầy đủ tên tuổi của những người con trai, thậm chí ghi cả họ của người vợ. Trai gái trước khi kết hôn phải ghi rõ họ tên, tuổi, vừa để thày cúng so tuổi xem có hợp không, đồng thời xác định rõ quan hệ huyết thống của đôi trai gái có sai phạm gì không, sau đó mới quyết định ăn hỏi. Họ cũng không cho phép con cô, con cậu được lấy nhau. Việc kết hôn giữa con dì, con già, luật tục không cấm song cũng không khuyến khích, vì vậy những trường hợp kiểu này chỉ là ngoại lệ ở các thôn bản.

Hôn nhân truyền thống thường là những người đồng tộc lấy nhau, bởi lấy người khác tộc sẽ gặp nhiều hạn chế trong quan hệ ứng xử, tâm lý, nếp sống, ngôn ngữ... Vì vậy, nam nữ thanh niên rất ngại lấy người khác tộc. Song, với sự phát triển xã hội, các cuộc hôn nhân hỗn hợp tộc người ngày càng nhiều, phổ biến ở vùng biên giới, vùng cư trú xen cài, nơi quan hệ giao tiếp diễn ra mạnh mẽ. Các cuộc hôn nhân này thường thấy ở các tộc gắn bó với nhau về lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa như Tày, Dao, Kinh, Hoa...

            Các nghi lễ trong hôn nhân
Tục lệ cưới xin thường trải qua nhiều nghi lễ như: lễ dạm ngõ, lễ xin và so lá số, lễ báo lá số, ăn hỏi, lễ cưới chính thức, lễ lại mặt.

Lễ dạm ngõ là nghi thức đầu tiên trong hôn nhân, có ý nghĩa rất quan trọng vì nhà trai có thể biết ý kiến của nhà gái về việc thành hôn như thế nào. Người được chọn làm mối không phân biệt nam nữ, nhưng phải đứng tuổi, gia đình hạnh phúc, đông con, nhiều cháu, nói chuyện khéo léo, có tài ứng xử đối đáp, có uy tín, được nhiều người trong bản kính nể. Lễ dạm ngõ không có thời gian cố định, mà được thực hiện quanh năm, chỉ tránh những ngày xấu, ngày giỗ kỵ của tổ tiên ông bà... Thời gian đi, hướng đi nhiều khi tùy thuộc vào sự sắp xếp của thày cúng. Buổi lễ dạm hỏi chỉ mang tính chất thăm dò nên đồ lễ nhà trai mang sang nhà gái rất đơn giản, gồm có: trầu cau, 1 kg thịt lợn, 2 con gà, 1 chai rượu và vài gói kẹo. Nếu đồng ý, nhà gái đặt lễ lên bàn thờ, mời ông mối ở lại ăn cơm, ngồi nói chuyện. Hôm ấy nhà gái sẽ thịt 2 con gà mà nhà trai mang sang. Nếu không đồng ý, nhà gái sẽ không thịt gà đó mà thịt gà nhà mình để làm cơm thết đãi nhà trai.

Lễ xin lá số (pây pỏi mình), nhà trai chọn ngày lành tháng tốt, chuẩn bị đồ lễ sang nhà gái xin giờ, ngày, tháng, năm sinh của cô gái. Lễ vật nhà trai mang sang thường có chai rượu, con gà, 1 chiếc bánh dầy. Theo phong tục, để linh nghiệm trong việc so mệnh, cô gái tự tay viết ngày, tháng, năm sinh đưa cho nhà trai, chàng trai cũng phải tự viết ngày, tháng, năm sinh đưa cho cha mẹ mình. Sau khi có được lá số của đôi trẻ, cha mẹ của chàng trai mang hai lá số này đến nhờ thày cúng xem có hợp nhau không. Nếu hợp, nhà trai sẽ chủ động chọn ngày lành tháng tốt để sang nhà gái báo lá số đã hợp; nếu không hợp thì nhà trai phải trả lại lá số cho nhà gái và ít tiền bồi thường danh dự cho người con gái. Ở một số nơi, nhà trai không cần sang báo cho nhà gái, sau một thời gian không thấy hồi âm, nhà gái sẽ tự biết.

Sau khi xem số thấy hợp nhau, nhà trai sẽ mang lễ vật sang nhà gái để chính thức báo lá số (páo mình) của đôi trai gái đã hợp nhau. Ông mối và một người thanh niên mang theo đôi gà trống thiến, hai cân gạo nếp, một chai rượu, một bao thuốc lá, tất cả đều buộc bằng lạt nhuộm đỏ, ngụ ý thông báo cho mọi người xung quanh biết là cô gái đã có nơi có chốn. Đại diện nhà gái nhận lễ và đưa lên bàn thờ tổ tiên thắp hương, vì biết chắc chắn đôi trai gái đã hợp số và sẽ trở thành vợ chồng nên buổi lễ được tổ chức rất long trọng và vui vẻ. Tuy nhiên, buổi lễ được tổ chức lớn hay nhỏ là tùy thuộc vào kinh tế của từng gia đình, sau bữa cỗ họ hàng bên nhà gái sẽ thỏa thuận thời gian để tiến hành lễ ăn hỏi.

Lễ ăn hỏi (khả cáy) thực chất là buổi thỏa thuận về đồ lễ cưới giữa nhà trai và nhà gái. Ông mối cùng một em bé trai khoảng 12 - 13 tuổi mang theo đôi gà thiến, 6 - 15 kg thịt lợn, 2 chai rượu, 10 ống gạo nếp, tiền bọc trong vải đỏ, 60 kg gạo tẻ đến nhà gái làm cơm thết đãi họ hàng nhà gái. Tất cả đều là số chẵn hay con số theo cặp đôi, tượng trưng cho lứa đôi trong hôn nhân, với ý nghĩa cầu mong cho sự vuông tròn của đôi vợ chồng trẻ. Khi nhà trai mang lễ sang, đại diện nhà gái đón nhận và dâng lên bàn thờ tổ tiên. Sau đó đại diện nhà trai giới thiệu đoàn nhà trai, tuyên bố lý do và mọi công việc từ đó trở đi nhà gái trao đổi với đại diện của nhà trai. Sau bữa cơm, đại diện hai gia đình bàn bạc, thỏa thuận đồ sính lễ và thời gian tiến hành các nghi lễ tiếp theo. Khi về, nhà gái thường lại quả bánh, gà, thịt lợn, mỗi thứ một nửa gọi là trả gánh hoàn phúc, việc thỏa thuận về lễ vật xưa kia được gọi là tục thách cưới.

Tùy từng gia đình, số lượng đồ sính lễ được thách sẽ khác nhau. Thực hiện việc thách cưới đòi hỏi sự tế nhị, khéo léo của đại diện hai bên, vừa lo tốt chuyện hôn lễ cho đôi trẻ, vừa tránh tự ái và thiệt thòi về mình. Tuy nhiên, lễ vật nhiều hay ít, một phần phụ thuộc vào khả năng đối đáp, ứng khẩu của người làm mối trong lễ hỏi, phần khác phụ thuộc vào khả năng kinh tế của gia đình nhà trai, nhưng lễ vật nhất thiết phải có thịt lợn quay, gà, rượu, 1 dây hồng (làm bằng giấy bạc, màu đỏ), trong ngày cưới sẽ được đặt lên bàn thờ tổ tiên. Ngoài ra, nhà gái cũng phải chuẩn bị thêm một dây hồng để quàng vào cổ chú rể khi vái lạy tổ tiên nhà vợ, nếu trong gia đình anh chị em nào lập gia đình trước phải để lại dây hồng cho người lập gia đình sau. Làm như vậy người lập gia đình sau sẽ được hưởng duyên, may mắn của người đi trước và dây hồng này sẽ được treo mãi trên bàn thờ, kể cả khi các con đã đi lấy chồng, lấy vợ hết.

Sau lễ ăn hỏi, coi như hai gia đình chính thức gả con cho nhau và xem nhau là thông gia, nhà trai chuẩn bị điều kiện vật chất để tổ chức lễ cưới. Nhưng từ lúc này đến lễ cưới, thời gian thường kéo dài từ một đến ba năm, thậm chí lâu hơn. Trong thời gian chờ tổ chức lễ cưới, vào các dịp tết nguyên đán, rằm tháng 7, nhà trai phải mang lễ tới nhà gái, gọi là tục sêu tết.

Lễ cưới là việc quan trọng nhất trong nghi thức kết hôn. Ngoài ý nghĩa tục lệ, nó còn hàm chứa cả ý nghĩa về mặt pháp lý. Đây là nghi lễ để cộng đồng làng bản thừa nhận chính thức việc thành vợ thành chồng của đôi trai gái. Lễ cưới thường được tổ chức từ tháng 8 năm trước đến tháng 2 âm lịch năm sau. Đây là thời gian rảnh rỗi, mùa màng đã thu hoạch xong, lương thực, thực phẩm dồi dào, thời tiết mát mẻ, phù hợp với hôn lễ. Theo quan niệm truyền thống, nếu tổ chức lễ cưới vào tháng 3, 4 âm lịch thì đôi trai gái sẽ khó thành vợ chồng. Người Nùng Phàn Slình kiêng một năm không được gả chồng cho 2 chị em, một tháng không tổ chức hai đám cưới, còn nếu tổ chức vào hai tháng này thì chỉ dành cho những cô gái đã bị nhỡ nhàng.

Lễ cưới thường diễn ra 3 ngày ở hai bên gia đình. Thông thường bên nhà gái tổ chức trước, nhà trai tổ chức sau, song cũng có nơi tổ chức cùng ngày, nếu lễ cưới rể đời (1) thì ngược lại. Theo quan niệm của người Nùng Phàn Slình, nếu hôm cưới sáng sớm có mưa phùn, buổi chiều hửng nắng thì sau này đôi trai gái sẽ làm ăn thuận buồm xuôi gió; nếu có sấm sét, việc ắt sẽ khó khăn, những điều rủi ro có thể xảy ra đối với họ.

Tại nhà trai, khoảng 8 - 9 giờ sáng, những người trong đoàn đi đón dâu ăn mặc đẹp, dẫn đầu là ông mối, tiếp đến là chàng rể, 2 phù rể, 1 ông đón, 1 bà đón, 4 thanh niên khiêng lợn quay, 1 bé trai gánh xôi, 1 bé gái gánh đôi gà thiến, 2 con gà luộc, 1 dải lụa hồng và 1 mảnh vải (khoảng 2 mét) gọi là vải tùm khớ để trả công ơn mang nặng đẻ đau cho mẹ cô dâu.

Trang phục của chú rể và phù rể như nhau, không khác gì ngày thường mà chỉ khác là họ thường mặc bộ quần áo mới nhất, đẹp nhất, cắt may từ loại vải tốt, đẹp nhất mà gia đình tự dệt hoặc mua ở chợ. Áo chàm đen, kiểu cổ cứng, xẻ ngực, khuy cài bằng dây vải, thường có 4 túi, dài quá mông, quần được cắt từ vải đen nhuộm chàm, phần cạp là vải khác màu. Dây lưng làm bằng sợi vải bện hoặc sợi dù luôn buộc sẵn ở eo. Trước kia nam giới cũng thường búi tó sau gáy rồi chít khăn đen, nhưng đến nay thường mặc âu phục và cắt tóc ngắn. Trước giờ đi đón dâu, người ta thường làm lễ cúng tổ tiên, theo tục lệ từ trong nhà đi ra không ai trong đoàn đón dâu được dẫm chân vào bậc cửa chính.

Khi đoàn nhà trai đến nơi, nhà gái cử một người đại diện ra đón và một số người khác ra phụ khiêng lễ vật vào nhà. Ông thày cúng là người đầu tiên bước chân vào nhà cô dâu, tiếp đó là ông, bà mối, rồi chú rể, 2 phù rể và những người khiêng lễ vật. Tiếp theo, ông, bà mối thông báo lễ vật nhà trai mang đến và nhà gái mở ra kiểm tra. Sau đó, nhà gái lấy dải lụa hồng nhà trai mang đến buộc vào bàn thờ tổ tiên, đồng thời mang dải lụa hồng đã được chuẩn bị từ trước để thày cúng buộc vào người chú rể. Khi thày cúng châm nến lên bàn thờ để khấn, chú rể quỳ trước bàn thờ, 2 bên là 2 phù rể. Lúc này ông, bà mối rót 2 chén rượu rồi thông báo cho nhà gái biết giờ rước dâu, chú rể phải làm lễ ra mắt và lạy tạ từng người bậc trên bên họ hàng nhà gái. Làm xong, ai cũng mừng tiền cho chú rể.

Trang phục của cô dâu cũng được cắt may từ vải chàm đen, áo kiểu 5 thân cài cúc sang nách, thân áo dài quá mông, mép ống tay áo được can thêm miếng vải màu xanh khác với màu áo. Chỗ khuy cài ở vạt áo phía trước cũng được viền một băng vải màu xanh, cổ đứng, áo luôn đi kèm với thắt lưng. Quần kiểu chân què đũng rộng, ống rộng, cạp rộng, thắt bằng 1 sợi dây vải, ống quần thường dài tới mắt cá chân. Cô dâu chít khăn đen hình vuông kiểu mỏ quạ, phù dâu cũng mặc giống cô dâu.

Trong lễ cưới, tại nhà gái, các cuộc hát xướng (cò lảu) giữa các vị khách và cô dâu, chú rể diễn ra từ lúc nhà trai đến cho tới khi đón cô dâu về nhà chồng. Các điệu hát sli chỉ diễn ra khi khách khứa đã có mặt đông đủ trong đám cưới, chú rể và ông, bà mối là những người phải lĩnh các vế đối đó.

Theo tục lệ, người được mời đến dự đám cưới thường mang theo 2 loại tiền mừng: thứ nhất là tiền được ghi vào sổ, gia đình sẽ giao cho một người đứng ra ghi chép cẩn thận sau này còn phúc đáp lại; thứ hai là tiền mừng riêng cho cô dâu, chú rể khi đi mời khách ăn trầu, hút thuốc, uống rượu, không ghi vào sổ sách. Để tỏ lòng cảm ơn họ hàng nội ngoại và khách quý, khi đi mời trầu, thuốc, cô dâu chú rể cũng có quà biếu, được đặt trên khay trầu thuốc và đưa đến từng người một.

Đến giờ đón dâu, thày cúng lấy một tấm vải ra đứng trước bàn thờ tổ tiên nhà gái để xin gói khăn (vía) của cô dâu về nhà, tấm khăn đó được gấp lại và được đại diện nhà trai mang về đặt trên bàn thờ tổ tiên. Khi bước chân xuống sàn, nếu là người đầu tiên lập gia đình, cô dâu phải quàng tấm vải đỏ lên vai anh chị của mình, thì người đó mới không bị xui xẻo và sau này mới có thể lấy được vợ, được chồng.

Theo phong tục, hai phù dâu cùng cô dâu về nhà chồng. Cô dâu mang theo một hòm gỗ đựng quần áo, một bộ ấm chén, một phích nước, một chậu rửa mặt, một chậu rửa chân, một chiếc chăn, một chiếc màn, xoong, nồi và toàn bộ số lễ vật mà nhà trai đã đưa tiền cho nhà gái sắm. Ngoài ra, cô dâu còn phải mang theo một ít khăn mặt để khi về đến nhà chồng còn biếu ông nội, ông bác, ông chú chồng.

Trên đường về nhà chồng, nếu gặp đám cưới đi ngược chiều thì 2 cô dâu thường đổi khăn hoặc nón, dép cho nhau. Khi về đến nhà chồng, cô dâu phải chờ đến giờ tốt mới được bước vào nhà, sau khi thực hiện một số nghi lễ thanh sạch. Lúc này, trước cửa nhà trai đã được thày cúng đặt sẵn một chậu nước trong đó có một cành lá xanh, khi cô dâu đang chuẩn bị bước chân vào nhà, thày mo cầm cành lá phất nhẹ vài giọt nước vào chân cô dâu, ý muốn xua đi mọi điều không tốt ở người cô dâu khi bước chân vào nhà chồng. Sau khi đã được mời vào nhà, cô dâu cũng phải thực hiện các thủ tục như chàng rể đã làm ở nhà cô dâu, sau đó cô dâu cùng chú rể đi vái lạy cha mẹ, chú, bác bên nhà chồng.

Lễ cưới kết thúc khi trời đã tối muộn, đoàn khách đến dự cũng đã ra về và đoàn nhà gái là những người ra về sau cùng trong ngày, duy chỉ có 2 phù dâu ở lại ngủ với cô dâu đêm đầu tiên tại nhà chồng. Trước khi cô dâu vào buồng, thày mo sẽ làm lễ trải chiếu và từ đó trở đi không ai được phép vào buồng cô dâu nữa, khi đám cưới kết thúc, đôi trẻ đã thành vợ chồng và ông, bà mối cũng hoàn thành nhiệm vụ.

Lễ lại mặt (hòi lòi) được tiến hành sau lễ cưới 3 ngày, đôi vợ chồng trẻ phải đem đôi gà trống, 2kg thịt lợn, 3 - 4 lít rượu, xôi, chè thuốc về thăm gia đình bố mẹ vợ, chàng rể chỉ ở lại nhà vợ một ngày, sau đó đưa cô dâu quay về nhà mình, đi cảm ơn ông mai bà mối. Đôi vợ chồng mang đến nhà ông, bà mối: 1 kg thịt lợn, xôi, tiền, 1 chiếc khăn mặt và 1 đôi dép, nhận ông bà mối làm bố mẹ nuôi. Ông, bà mối làm vài mâm cơm mời họ hàng bên nhà mình đến dự.

Sau ngày này, cô dâu về sống cùng bố mẹ đẻ trong vài năm đầu và chỉ về nhà chồng vài ngày trong những dịp lễ tết, thu hoạch mùa màng. Mỗi lần như thế, chồng hoặc anh em họ hàng bên chồng đích thân sang đón cô dâu. Chỉ khi nào sắp sinh con đầu lòng (có thai khoảng 7 tháng), cô dâu mới về ở hẳn nhà chồng. Hình thức cư trú bên nhà ngoại trong thời gian đầu mới cưới là tập tục truyền thống, là nguyên tắc khá quan trọng trong hôn nhân của người Nùng Phàn Slình, thực tế là để người mẹ có thời gian dạy dỗ, chỉ bảo con gái cách thức làm vợ, chăm sóc thai nhi và nuôi dạy con cái. Mặt khác, đây cũng là thời gian chăm sóc cha mẹ, như một phần báo hiếu, trả nghĩa công sinh thành, dưỡng dục, đồng thời cha mẹ cũng có quãng thời gian chuẩn bị tâm lý xa con gái, đỡ bị hẫng hụt trong cuộc sống.

Trong trường hợp gia đình nhà gái neo đơn, thiếu nhân lực hoặc có con trai nhưng còn nhỏ thì sẽ làm lễ rể tạm (khủi sình) giống như nghi thức một đám cưới bình thường và người con rể này phải vái lạy tổ tiên, báo cho tổ tiên biết rằng từ nay gia đình có thêm thành viên mới. Bên cạnh đó, lễ cưới rể đời, nhà gái lo tất cả chi phí cho đám cưới. Sau khi cưới, chàng trai ở rể phải đổi sang họ vợ. Kể từ khi thày mo làm lễ xong thì chàng rể đã trở thành một thành viên, một người con trai trong gia đình nhà vợ. Từ đó trở đi, chàng rể đời phải có nhiệm vụ quán xuyến công việc trong gia đình nhà vợ, chăm sóc bố mẹ vợ như bố mẹ mình, phải thờ họ nhà vợ, con cái sẽ mang họ mẹ. Sau khi bố mẹ vợ qua đời, người con rể được thừa hưởng tài sản như một người con trai.

Trước đây, đa thê phổ biến trong xã hội người Nùng Phàn Slình, đó thường là những trường hợp không có con trai hay người vợ không có khả năng sinh đẻ. Nếu vì hai khả năng đó, người vợ cả phải cưới vợ lẽ cho chồng và chấp nhận cùng chung sống với người vợ lẽ. Những năm trở lại đây, các trường hợp lấy vợ lẽ để sinh con trai không được sự ủng hộ của pháp luật và cộng đồng, song nguyện vọng phải có con trai để nối dõi tông đường làm cho hiện tượng đa thê chưa hoàn toàn chấm dứt.

Từ xưa đến nay, hành vi ngoại tình bị cộng đồng thôn bản chê cười và lên án mạnh mẽ, người ngoại tình phải chịu nhiều hình phạt khắt khe. Nếu có thai thì chàng trai chưa vợ, cô gái chưa chồng phải kết hôn với nhau, người vợ ngoại tình sẽ bị cả làng chê cười và bị đuổi khỏi nhà chồng. Đa số trường hợp phải bồi thường tài sản cho nhà chồng (chi phí mà họ bỏ ra để cưới), người chồng ngoại tình thì phải nộp phạt ít nhất một con trâu và một ít tiền bồi thường danh dự cho nhà gái.

Người Nùng Phàn Slình cho phép phụ nữ tái giá và đàn ông lấy vợ kế. Trường hợp người chồng gặp rủi ro qua đời, người vợ vẫn ở lại chăm sóc bố mẹ chồng, con cái một thời gian, sau ba năm hết tang có thể đi lấy chồng khác. Nếu có con thì để lại cho bố mẹ chồng nuôi hoặc mang theo, tài sản của người chồng quá cố do anh em bên chồng quản lý, ra khỏi nhà chỉ được mang theo con và đồ đạc cá nhân. Trường hợp người đàn ông góa vợ cũng chỉ được lấy vợ kế khi đã hết tang vợ ba năm. Người vợ kế này thường là người đàn bà đã có một đời chồng, chi phí cho đám cưới không tốn kém lắm và người đến dự đám cưới thường là anh em họ hàng, thân thuộc của hai bên gia đình.

Có thể nói, hôn nhân của người Nùng Phàn Slình thể hiện rõ các đặc trưng văn hóa tộc người qua nguyên tắc hôn nhân, nghi thức cưới xin. Hiện nay, các nghi lễ và hình thức trong hôn nhân đã giảm một cách đáng kể, đặc biệt là đối với những người đang sống ở thị trấn. Tuy nhiên, đối với những cư dân ở vùng sâu, vùng xa thì quan niệm trong hôn nhân vẫn còn mang đậm chất truyền thống.
Đàm Minh Phượng


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét