Thanh niên nam, nữ dân tộc Nùng hát sli.
Nguồn sống chính của người Nùng là cây lúa và cây ngô. Họ kết
hợp làm ruộng nước ở các vùng khe dọc với trồng lúa cạn trên các sườn đồi. Đồng
bào Nùng còn trồng nhiều cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm như quýt, hồng...
Hồi là cây quí nhất của đồng bào, hàng năm mang lại nguồn lợi đáng kể. Các
ngành nghề thủ công đã phát triển, phổ biến nhất là nghề dệt, tiếp đến là nghề
mộc, đan lát và nghề rèn, nghề gốm.
Đồng bào Nùng sống thành từng bản trên các sườn đồi. Thông
thường trước bản là ruộng nước sau bản là nương và vườn cây ăn quả.
Người Nùng thích ăn các món xào mỡ lợn. Món ăn độc đáo và
được coi trọng là sang trọng của đồng bào là "Khau nhục". Tục mời
nhau uống rượu chéo chén có lịch sử từ lâu đời, nay đã thành tập quán của đồng
bào.
Đồng bào Nùng có một kho tàng văn hóa dân gian phong phú và
có nhiều làn điệu dân ca đậm đà màu sắc dân tộc. Tiếng Sli giao duyên của thanh
niên Nùng Lạng Sơn hòa quyện vào âm thanh tự nhiên của núi rừng gây ấn tượng
sâu sắc cho những ai đã một lần lên xứ Lạng. Then là làn điệu dân ca tổng hợp
có lời, có nhạc, có kiểu trang trí, có hình thức biểu diễn đã làm rạo rực tâm hồn
bao chàng trai Nùng khi ở xa quê hương.
Lễ hội nổi tiếng thu hút được nhiều người, nhiều lứa tuổi
khác nhau là hội "Lùng tùng" (còn có nghĩa là hội xuống đồng) được tổ
chức vào tháng giêng hàng năm.
Nhà Tày - Nùng có những đặc trưng riêng không giống các cư
dân khác trong cùng nhóm ngôn ngữ Tày - Thái.
Bộ khung nhà Tày - Nùng cũng được hình thành trên cơ sở các
kiểu vì kèo. Có nhiều kiểu vì kèo khác nhau, nhưng chủ yếu là bắt nguồn từ kiểu
vì kèo - ba cột. Để mở rộng lòng nhà người ta thêm một hoặc hai cột vào hai bếp
vì kèo ba cột để trở thành vì kèo năm hoặc bảy cột. Song không có vì kèo nào vượt
quá được bảy cột.
Bộ khung nhà chúng ta dễ nhận ra hai đặc trưng:
- Ô vì kèo, đứng trên lưng xà, kẹp giữa hai cột có một trụ
ngắn hình "quả bí" (hay quả dưa: nghé qua), đầu đấu vào thân kèo.
- Đệ liên kết các cột trong một vì kèo hay giữa các vì kèo
với nhau, người ta không dùng các đoạn xà ngắn mà dùng một thanh gỗ dài xuyên
qua thân các cột.
Mặt bằng sinh hoạt của nhà Tày - Nùng trên cơ bản là giống
nhau: mặt sàn chia làm hai phần: một dành cho sinh hoạt của nữ, một dành cho
sinh hoạt của nam. Các phòng và nơi ngủ của mọi thành viên trong nhà đều giáp
vách tiền và hậu.
Nói đến nhà Tày - Nùng có lẽ không nên bỏ qua một loại hình
nhà khá đặc biệt, đó là "nhà phòng thủ". Thường là có sự kết hợp gữa
nhà đất và nhà sàn (đúng hơn là nhà tầng). Tường xây gạch hoặc trình rất dày
(40-60cm) để chống đạn. Trên tường còn được đục nhiều lỗ châu mai. Có nhà còn
có lô cốt chiến đấu. Loại nhà này chỉ có ở Lạng Sơn gần biên giới phía bắc để
phòng chống trộm cướp.
Đặc điểm trang phục: ít có biểu hiện đặc sắc về phong cách
tạo hình (áo nam giống nhiều dân tộc khác, áo nữ là loại năm thân màu chàm, quần
chân què ít trang trí). Điểm khác nhau giữa các nhóm, một trong những biểu hiện
là cách đội khăn và các loại khăn trang trí khác nhau đôi chút.
Hát soong hao – Nét văn hoá đẹp của dân tộc Nùng
Tiếng Nùng, soong hao có nghĩa là hai ta, đôi ta. Hát soong
hao là hình thức sinh hoạt dân ca trữ tình đối đáp nam nữ của các thế hệ thanh
niên dân tộc Nùng ở huyện Lục Ngạn và một phần ở các huyện Sơn Động, Yên Thế, Lục
Nam.
Hát soong hao được tiến hành chủ yếu vào mùa xuân, từ những
phiên chợ đầu năm đến những phiên chợ cuối cùng của tháng ba âm lịch. Hát soong
hao ở Lục Ngạn đông vui nhất vào những ngày mùng tám tháng giêng, mời tám tháng
hai âm lịch, trùng vào ngày hội Từ Hả và hội chợ Chũ. Ngày rằm tháng tám âm lịch
đi chợ Biển Động, trai gái dân tộc Nùng rủ nhau đi từng đoàn. Họ vào chợ chỉ
mua bán qua loa rồi kéo nhau vào các nhà hàng ăn uống và hát với nhau. Nam ngồi
một dãy, nữ ngồi một dãy, đối diện nhau mà hát. Trời ngả về chiều họ mới đứng dậy
ra về, cuộc hát kéo dài theo con đường về bản xa và nhiều đôi đã thành vợ thành
chồng sau đó.
Hát then
Hát then là một thể loại ca nhạc tín ngưỡng của người Tày,
Nùng. Có thể xem hát then là một cuộc diễn xướng trường ca mang màu sắc tín ngưỡng
tường thuật lại cuộc hành trình lên thiên giới để cầu xin ngọc hoàng giải quyết
một vấn đề gì đó cho gia chủ.
Các bản trường ca thường gồm nhiều chương đoạn với độ dài
ngắn và nội dung chi tiết ít nhiều khác biệt. Bản dài nhất đã sưu tầm được dài
tới 4949 câu với 35 chương đoạn.
Hát then là một hình thức diễn xướng tổng hợp bao gồm cả ca
nhạc, múa, diễn với nhiều tình huống khác nhau. Trong cuộc lễ, ngoài nhiệm vụ
thực hiện các nghi thức cúng, then hoặc giàng đồng thời phải đảm nhiệm chức
năng của một diễn viên tổng hợp. Họ vừa hát, tự đệm, vừa múa và diễn để thể hiện
nội dung các câu hát, đôi khi còn biểu diễn cả những trò nhai chén, dựng trứng,
dựng gươm...
Âm nhạc luôn luôn là yếu tố xuyên suốt cuộc hát then. Hát
then có nhiều bài bản, làn điệu. Nhạc cụ đệm đơn giản song ở đây có thể gặp những
đoạn hát hai ba bè lý thú.
Người Tày, Nùng bất kể tuổi tác, giới tính, những người mê
tín cũng như không mê tín rất thích nghe hát then. Một vài tộc khác như Mông,
Việt ở trong vùng cũng tiếp nhận thể loại hát này trong đời sống tinh thần của
mình.
Hát Sli - một làn điệu đặc trưng của dân tộc Nùng
Hát Sli (vả Sli) là một làn điệu đặc trưng của dân tộc
Nùng. Có thể kể đến một số kiểu loại chính như: Người Nùng Cháo có Sli Slình
làng, nguời Nùng Giang có Sli Giang, người Nùng Phàn slình có Sli bốc, sli Phàn
slình… Thực chất Sli (vả Sli) là một hình thức hát thơ (kiểu như Phong Slư của
dân tộc Tày nhưng cơ bản khác nhau về mặt tính chất). Sli của đồng bào Nùng được
coi là một thể loại trữ tình dùng trong các ngày hội, ngày chợ, ngày cưới, ngày
vào nhà mới…
Trước đây, đã là người Nùng, hầu hết ai cũng biết hát Sli,
yêu thích Sli bởi ngoài việc ví, đối … lời hát Sli còn được coi như tiếng hát
giao duyên. Hát Sli thể hiện sự ứng đối tài hoa của mỗi người với những lời Sli
ví von, bóng bẩy, tinh nghịch, xa xôi, ẩn chứa rất nhiều hàm ý… Đối với Sli
giao duyên, thường do một đôi trai gái hoặc một vài đôi trai gái thể hiện theo
lối đối đáp. Bao giờ cũng có người đứng ra Sli trước (kiểu mời gọi lĩnh xướng).
Người hát trước thường là người có giọng vang, trong và phải có khả năng ứng đối
khéo léo, tài tình và nhanh nhậy. Khi bên này vừa ngừng tiếng Sli (hỏi) thì bên
kia cũng phải có người nhanh chóng cất lời Sli để đáp lại. Lời Sli đôi khi
không chỉ bao hàm nội dung mượt mà, tế nhị của chuyện tình cảm ấm nồng, đằm thắm
của bao đôi trai gái mà còn có cả muôn mặt của đời sống như các hiện tượng tự
nhiên, các mốc thời gian cùng sự kiện nhân vật và lịch sử… đôi khi có cả những
lời chào mời sang trọng, những lời thách đố kiêu ngạo, đáng yêu…
Về hình thức thể loại, nhìn chung Sli có những bài thơ có độ dài ngắn khác nhau. Có bài Sli chỉ khoảng 4 đến 8 câu, lại có những bài Sli dài đến hàng trăm câu, câu thơ thường chỉ có từ 5 đến 7 chữ. Vần của bài thơ được xác định bởi vần của chữ cuối cùng câu đầu tiên của bài thơ. Các chữ cuối cùng của các câu chẵn tiếp theo được gieo gối vần trên cơ sở hiệp vần với chữ cuối cùng câu đầu tiên.
Về hình thức thể loại, nhìn chung Sli có những bài thơ có độ dài ngắn khác nhau. Có bài Sli chỉ khoảng 4 đến 8 câu, lại có những bài Sli dài đến hàng trăm câu, câu thơ thường chỉ có từ 5 đến 7 chữ. Vần của bài thơ được xác định bởi vần của chữ cuối cùng câu đầu tiên của bài thơ. Các chữ cuối cùng của các câu chẵn tiếp theo được gieo gối vần trên cơ sở hiệp vần với chữ cuối cùng câu đầu tiên.
Thông thường vần trong bài Sli đều là thanh bằng. Chẳng hạn
bài Hội chợ- Sli Phàn Slình ở hội chợ Xuân Dương(Na Rì): Vằn này bươn sham háng
nhì hả Dỉ noọng quẩy sẩy mại cần mà Shíp nhì bươn pi vằn toọc Đếch kế Sli cốc
tèo mà lầy… (Hôm nay ngày hội 25 tháng 3 Anh em ở gần xa về dự Cả năm chỉ có một
ngày như thế Trẻ già, trai gái tới cùng vui…) Có thể nói, Sli là một làn điệu
mang đậm dấu ấn bản sắc của đồng bào dân tộc Nùng. Đến nay, người biết hát Sli
không nhiều, nhất là Sli theo đúng nguyên bản ngày xưa. Đây chính là nét văn
hóa đặc sắc rất cần được bảo tồn và phát huy.
Đàm Thị Lượng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét