DÂN TỘC THÁI. ÚT Ỏ VỀ KINH. * Biên Khảo Huỳnh Tâm.

Út Ỏ pay Keo (Út Ỏ về kinh) là thiên ký sự bằng thơ của Út Ỏ, không rõ tên thật là gì? Chỉ biết ông là người Thái bản Púng thuộc xã Chiềng Yên, huyện Mai Sơn (đất Mường Mụa xưa), tỉnh Sơn La, viết về chuyến đi cống nạp ở kinh thành Thăng Long để xin bãi thuế các mỏ vàng. Nguyên tác bằng chữ Thái cổ gồm 501 câu. Ổng Cầm Bao ở Mường Chanh đã dày công sưu tầm và hiệu đính.
Chúng tôi trích lại và loan tải Văn Hóa 54 dân tộc Việt Nam từ câu 173 đến câu 409. Theo dịch giả thì thiên ký sự này được viết vào khoảng đời Lê Dụ Tông, năm Bảo Thái thứ 1, tức năm Canh Tý (1720), đời chúa An Đô vương Trịnh Cương. 
... Bè trôi xuôi, xuống tới bến Tầm Châu,
Vừa một ngày đường voi, vào quán cơm nghỉ trọ.
Thấy người kinh ở đây buôn bán, có rượu, thịt, cá;
Cái ăn đủ mọi thức, chưa thấy thiếu gì.
Gan với gỏi chộn cùng, có cả bún chan canh.
Nhưng lệ đất Kinh xẻn dè, ăn ít,
Một quan tiền quý đủ ba người no dạ.
Lại đi tới Hà Đông, Cao Xá;
Là nơi "quan tướng phủ" thay vua trấn giữ.
Mới thành "quan cờ" đóng ngăn quân Hán.
Bởi vậy mới được là "Chính đội Sáy trưởng" công to[1].
Quan cũng đòi lấy bạc thoi, vải súc.
Phải nộp lễ như ông "Đô phóng"
Xuống dâng ba thớt voi vào năm Nhâm Ngọ
Tôi phải vào thưa trình biện bạch đủ điều:
- Việc "Đô phóng" nọ về tiến ba voi
Đó là của "tạo phìa" đất phủ Chính Pha[2]
Sao lại đòi lễ vật của tôi như ông phủ Muổi?
Họ nói là xuống kiện cáo Chiên, Lay, Quài,
Và vu oan cả phìa Mai nhiều nỗi.
Nên họ phải đưa của nhờ "Sáy trưởng" các quan.
Còn đây là phía Chiềng Ban công to tiến dâng voi quý
Xin quan ở ngôi cao sáng suốt xét giùm!
Vẫn không tha phải mất gà một con, gạo nửa gánh,
Đến sớm hôm, liền từ tạ ra đi.
Qua rừng cây, qua phố, những hàng cau;
Bờ thành rộng, đường lớn voi đi tới.
Bè xuôi dòng, thả cho tự trôi đi,
Bỏ chèo lái, nghỉ ngơi đỡ mệt;
Nhìn trời thấy vần mây chồng chất
Ta đã rong ruổi đường dài nhiều tháng, lâu về!
Trời lấp lánh, gió lùa mát lạnh,
Thấy thuyền bè lũ lượt ngược xuôi;
Có những chiếc trưng buồm dựng nhấp nhô
Đò, thuyền, bè lắm tay chèo, đến sợ!
Năm mươi kẻ, toàn "quân cảm" cướp tay chèo,
Giữa thuyền, người ngồi đầy thành hàng, uống rượu;
Nói toàn tiếng lạ, nghe mịt mù chẳng hiểu,
Tiếng cười vui ồn ào như rừng chim vẹt.
Chẳng rõ mấy mươi "phủ" cùng họp việc một nơi!
Giờ đến nơi cửa dinh, cửa bến,
Sai nhân vào trình quan thưa báo:
- "Tôi đã lên đón voi tận Chiềng Ban về đó
Nhưng đường xa, mất nhiều tháng, lâu về
Lối quanh co, bỏ qua vùng Cu Cón, Mường Manh,
Đường gập ghềnh, ngàn non, triệu suối
Lên tận bản Châng Phạ, Long Cúc, Mường Cai
Bao đêm ngày mới về tới đây, ngài hỡi!"
Khi ấy quan Thiếu bảo ngồi chốn công đường
Thầy An Nam[3] dẫn lối tôi vào,
Thấy toàn quân vác kiếm đứng hầu sau trước.
Gươm tuốt trần, gác trên tay, nom mà sợ hãi!
Chẳng khác gì cỏ gianh mọc giữa bãi bằng!
Họ mặc áo đều tô vôi trắng loá.
Hèo, roi nhiều sắc, có nón đội đầu,
Họ mặc nhiều kiểu sang, xem ra lạ mắt!
"Quan chính" đội mũ ba dải có cánh
Nhìn thấy đai vàng thắt ngang lưng đường bệ.
Họ để cách lối rộng vừa chừng ba sải.
Lệnh gọi đòi tôi vào trong, gần tướng.
Tôi liền vào nộp voi, cùng bạc nén.
Của lớn đem tiến dâng, nhờ ông Chá[4] chép ghi:
- "Xin thương đến lòng trung nghĩa, chớ so bì nơi khác.
Chiềng Ban phìa trị vì, chưa điều gì vướng mắc.
Vì ghét ghen nên người đặt lời xúc xiểm,
Nói rằng phìa ngự đó, được ăn mỏ vàng ròng
Có lần, vua đã ban chỉ sai quan khám rõ.
Lời người xưa truyền lại đã lâu:
Bao đời vua đã từng sai hàng trăm kẻ
Lên khai mỏ, đào thành hang hốc.
Khi ấy, bỗng nổi tiếng kêu than, núi rừng rung chuyển
Hang hố liền sập lở, vùi người chết đống.
Chúng tôi đều kinh hãi, bỏ mặc hoang vu,
Nay đã thành rừng cây sấu, cây sâng rậm rạp.
Qua nhiều đời, từ vua Hồng Sộn[5],
Gặp lúc này vua quan đời mới,
Xin nói thật nỗi có kẻ vu oan,
Nhờ ở lượng bề trên cao rộng xét thương,
Nhân có thớt voi quý đưa về dâng tiến
Xin có lời nhờ ông Chá chép ghi".
Khi ấy, ông Chá thực vui lòng hả dạ
Bởi lẽ "phìa" đã lo xứng lòng vua chúa, đáng khen;
Lại thêm "Đô tài" giỏi hơn hẳn nhiều người,
Trình thưa lời khéo khôn, phải ý.
Liền ban bảo người "lịch vụ" nho lại thảo ngay.
Giúp đỡ làm hộ tờ khai
Cho tỏ tường như lời "Đô tài" vừa nói,
Để dâng bày, tâu quan mọi lẽ.
Ông Thiếu bảo truyền xong, họ liền múa viết
Đem tới hầu bề trên dâng chúa.
Còn mười thoi bạc trắng và vải lót mình voi
Trả lại cho mang về như cũ.
Buổi sáng mai, khi gà gáy canh tư
Gặp phiên chầu được, được vào hầu dâng lễ,
Có sai nha dẫn đường đưa lối,
Lại cấp cho hăm lăm người khỏe mạnh mang gươm,
Cả chiêng trống dẫn đường voi tới.
Được mọi điều đầy đủ, vâng phép ông Chá
Lui về nghỉ ở hàng cơm như cũ.
Đến lúc mặt trời xế, trời sập tối dần,
Những tia nắng tắt nhanh vào cõi trời mù mịt.
Nghe quan Kinh canh giờ đánh trống nhiều hồi,
Thoáng chốc đã canh năm tảng sáng,
Gà trong làng như biết giờ, vỗ cánh gáy ran,
Boong boong tiếng chuông đồng ngân vọng.
Lúc đó, ông Chá sai người dẫn đường vừa tới,
Tôi liền dậy mặc áo, đội mũ lên đầu
Quan "Cô kê[6]" kèm sát bên thân
Đi trước voi, theo chân ông Chá,
Rảo bước vào cửa Nam xây đá,
Cổng đục đá tựa hang thông suốt.
Trên có vòm, cao rộng xấp xỉ bằng nhau
Voi lớn quá, lọt cả người cưỡi.
Trong hàng, người ngồi đầy thành hàng, uống rượu.
Bún bánh bay la liệt, nhiều hàng mua bán.
Qua chân thành đức vua đi xuống
Đến cửa tàu voi phủ chứa Nam Vương[7]

Nhìn thấy muôn vạn quân xếp hàng trùng điệp;
Kiệu cùng võng chất đầy ngoài cửa,
Toàn là của những bậc bà nàng, công chúa;
Đức Thái bảo ngôi cao, Đô đốc cũng nhiều.
Tôi được vào tận vòng trong phủ chính,
Chỉ thấy hình vẽ cá vàng với rồng rực rỡ,
Đứng uy nghiêm đầy đủ trăm quan,
Áo mũ đều đẹp đẽ lắm màu.
Lính tráng chúa trần gian toàn là trai trẻ,
Gươm giáo đều bọc bạc sáng loè
Đầu đôi bên trông tựa rừng lau.
Tôi liền vào quỳ lạy nộp lễ tiến voi.
Khi ấy, chúa trần gian ngẩng mặt nhìn xem,
Thấy thớt voi đẹp to như đúc.
Liền phán cho từ nay xá lệ nộp thuế mỏ vàng.
Ban cho "Phìa" một chiếc áo màu đẹp đẽ
Đỏ rực rỡ như ánh mặt trời
- "Hãy trở về với chúa đất" Phìa nhọt chom cắm[8] ngươi nhé!
Nhớ năm năm dâng đủ thuế bằng bạc, vải mà thôi.
Tôi liền quỳ xuống lạy nhiều hồi ơn chúa.
Lại ban cho một chiếc áo kép the hoa,
Lĩnh lấy, giơ lên đầu, ai nấy đều khen ngợi,
Khác nào được với tới trời, lại trở về với "phìa" ta!
*   *   *
Khi ấy, ông Chá lại đưa về lối cũ
Ra khỏi phủ, nghỉ chân đỡ mệt,
Tôi bèn đi xem chợ, hàng phố chơi bời,
Hỏi tìm mua quạt hoa, giấy viết,
Được chút ít về làm quà biếu nhà ta.
Bắt đầu tới hàng nhuộm vải điều, lụa trắng;
Lần sang tận cầu Đông đá dựng,
Vết đẽo gắn khít liền như ván, tạo đường đi.
Tới hàng thịt: bò béo, lợn, gà
Xếp thành từng đống lớn bên hàng cua, cá;
Trăm thứ dưới gầm trời, toàn là cái ăn.
Tới xem hàng cau quả bán buôn,
Muôn vạn người, đông không kể xiết,
Những buồng cau, gánh khiêng bán dạo.
Hàng Bát Bảo[9] đo toàn gấm vóc,
Nào the hồng nhoáng trơn từng súc,
Nào vóc nhiễu chất chồng hàng họ bán buôn,
Vải thô cũng chất cao như núi,
Toàn những của lịch sự, quý giá hào hoa.
Qua chốn ấy, đến nơi Hàng Bát,
Ngổn ngang toàn bát đĩa dàn bày.
Loại chum, kiệu khiêng ba, vác bốn.
Bát sứ cùng đĩa sứ nhẵn bền.
Dạo đến tận cùng hàng gương trong sáng.
Soi bóng mình, thấy rõ hình dung,
Gương lớn đó, họ dựng bên đường,
Có hàng mũ, có cả áo, túi, khăn,
Thấy muôn vạn người tới mua đồ mặc:
Người thấp nhỏ cũng được vừa lòng
Người béo, người cao kều, bụng phệ,
Họ cắt may vừa ý từng người,
Giờ mới biết cho loại người làm thợ khéo may thêu, thật đó!
Tới hàng cày, cào cỏ, đục, dùi, rìu, dao,
Cuốc, mai chất đống cùng bừa sắt, đồ nghề làm ruộng.
Tới hàng nồi, nồi hoa muôn chiếc
Chiếc lớn kia, phòng để đựng nước ngâm "hỏm[10]" ngâm chàm, tiện quá!
Thứ nhỏ vừa nấu canh múc vội,
Thứ nhỏ nữa để chưng trứng vừa một đĩa.
Tới hàng đạn đúc chân chài, chì lưới,
Hàng ngàn thúng, quá nhiều như cát.
Hàng thiếc lắm bình rượu, cơi trầu;
Họ treo đủ mọi kiểu cơi lớn nhỏ,
Xem kỹ thấy trắng loáng như hoa ban nở rộ.
Có một nơi, hàng bạc vàng bày ra vô kể,
Hỏi mới biết: thợ nghề này chẳng hề túng thiếu.
Bọn họ tuy là thợ, nhưng nhà cửa giàu sang,
Họ mặc đẹp, ăn ngon thừa thãi.
Bởi lẽ vàng đưa họ đúc thành nguyên chất,
Họ bớt đi đôi chút, chẳng kém phần nào,
Thay đồng đỏ bù vào như cũ,
Vàng chẳng thật, họ đúc luyện nhuyễn nhuần.
Lại đến hàng chiêng to, chũm choẹ,
Suốt ngày đêm thi nhau đánh thử,
Muôn vạn người chẳng có đâu vui thế!
Tựa hồ nước đổ thác, qua lắm ghềnh xuống mặt phải vang ầm.
Qua đó rồi, liền tới hàng gươm,
Thấy những thanh gươm có lá chắn dày, vác nặng,
Gác trên giá, vỏ sơn đen nhuộm trắng,
Cả dao nhỏ cũng chất chồng như củi,
Tới nhà lầu đặt nhiều súng lớn,
Chiếc lớn lọt người, chui vào quét cũng có;
Chiếc vừa vừa, đủ bốn người khiêng, cũng có,
Bày ngổn ngang trong bốn toà nhà ngói.
Cả bầy voi ngà trắng nhiều con, cũng có,
Con to lớn thõng vòi dũi đất,
Con đen chàm, ngà trắng thuôn cong,
Con ngà chéo, con một ngà cũng có
Con ngà cong tựa trăng liềm vắt ngược, cũng có,
Từ thuở nhỏ lớn lên làm người,
Thấy nhiều nghề khác mường ta quá!
Chiếc ô hoa, nước thêu tựa vẽ, cũng có,
Họ quan thêu hình rồng uốn lượn,
Có những hình quý lạ, cả hình mẫu nàng tiên.
Cây lớn bằng bịch thóc, họ đẽo thẳng băng.
Ba thân cây liền nhau dựng nối,
Một quả quý đặt trên chóp đỉnh,
Nhìn thấy lấp lánh tựa ngôi sáo lớn tỏ,
Hết tầm nhìn phải muôn sải có dư.
Cái cách cây nối cây, họ dựng làm sao?
Sau này, khi trở về tới nhà tới bản,
Ta kể lại với bạn già của "Đô tài",
Mọi người sẽ bảo mình nói dối cũng nên!
Liền men sông về tới hàng mây,
Họ quấn bện nhiều sải làm chão.
Bước qua tới Hàng Buồm bán chiếu,
Mới thấy kiểu đan vắt vẻo có lẽ chui thành áo khoác thân,
Kiểu đan tròn thành gối dựa lưng
Kiểu khác đan thành bị, có dây đeo, xách.
*   *   *
Lại trở về hàng cơm nơi trọ cũ,
Đến sớm hôm, vào dặn chào ông Chá:
- "Giờ đây, tôi xin trở về lại cửa nhà,
Xin gửi lời chúc Chúa thượng đẹp ý bình yên,
Nhiều năm còn nhớ kỹ, chẳng quên lời cha mẹ!"
Ông Chá thương, cho người giúp đỡ,
Khuân đồ đạc xuống thuyền, đưa tiễn lên đường...
* Biên Khảo Huỳnh Tâm.

[1] Do không biết về tổ chức quan lại của triều đình, Út Ỏ tùy tiện gọi các quan chức đã gặp theo cách hiểu của mình, nên có phần ngồ ngộ.
[2] Thuận Châu có tên tiếng Thái là Mường Muổi hay Chiềng Pha. Từ thế kỷ XIV, châu này trở thành một trung tâm của vùng Thái Tây Bắc nên còn được gọi là Mường Chính. Chính Pha là ghép gọi Mường Chính – Chiềng Pha.
[3] Chỉ viên sai nha của phủ chúa.
[4] Chá: Chức đại diện cho chúa, ý đây chỉ quan Thiếu bảo đại diện cho vua.
[5] Vua Hồng Thuận (Lê Tương Dực 1509-1516).
[6] Có lẽ là chức quan "Câu kê". Chức này tới thời Nguyễn vẫn còn.
[7] Tức phủ chúa Trịnh.
[8] Nguyên văn: "Phìa nhọt chom cắm": Phìa ngọn đỉnh vàng, từ tôn xưng chúa đất.
[9] Tên cổ của phố Hàng Đào, tới thời Nguyễn vẫn còn dùng.
[10] "Hỏm" là loại cây nhỏ có lá lớn hơn cây chàm để ngâm nhuộm vải có màu xanh đen.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét