Lễ cưới của người Thu Lao trải qua nhiều nghi lễ khác
nhau, như lễ dạm gõ, lễ ăn hỏi, lễ cưới chính thức và lễ lại mặt…
Người Thu Lao là một trong những dân tộc ít người, chỉ
có ở Lào Cai, họ sống tập trung ở khu vực thượng nguồn sông Chảy thuộc các thôn
La Hờ, Lũng Thắng, La Măng, Thải Giàng Sáng (xã Tả Gia Khâu, huyện Mường
Khương); thôn Sán Chá (xã Thào Chư Phìn), thôn Tả Chải (xã Nàn Sán), thôn Khuốn
Pống (xã Bản Mế thuộc huyện Si Ma Cai).
Lễ cưới của người Thu Lao trải qua nhiều nghi lễ khác
nhau, như lễ dạm gõ, lễ ăn hỏi, lễ cưới chính thức và lễ lại mặt. Để tổ chức lễ
cưới, gia đình nhà trai phải nhờ một người đàn ông có tài ăn nói, có gia đình
khá giả, đầy đủ con trai, con gái làm ông mối - "pu dơ" sang thưa
chuyện với gia đình nhà gái để tiến hành các bước đi đến lễ cưới chính thức.
Khi đến gia đình nhà gái, ông mối sẽ dùng những lời hay ý đẹp để thuyết phục
nhà gái đồng ý.
Còn về phía nhà gái, mặc dù trong lòng đã ưng thuận,
nhưng bên ngoài vẫn tỏ ra chưa đồng ý để nhà trai phải cử ông mối sang nhiều
lần. Phải đến lần thứ ba, ông mối sang nói chuyện gia đình mới nhận lời để tăng
thêm giá trị của người con gái, không sợ bị bà con làng bản chê cười.
Sau lễ dạm ngõ một thời gian, gia đình nhà trai chọn
ngày tốt, nhờ ông mối mang theo một đôi gà, ba lít rượu mang sang nhà gái làm
lễ ăn hỏi. Ngày lễ ăn hỏi, gia đình nhà gái sẽ mời ông trưởng họ, bà cô, ông
bác và anh em trong dòng họ tiếp đón đoàn nhà trai mang lễ vật sang làm lễ ăn
hỏi và cùng bàn bạc đi đến lễ cưới chính thức. Hai gia đình sẽ cùng bàn thống
nhất số lễ vật mà gia đình nhà trai phải trả cho nhà gái vào ngày cưới chính
thức. Theo phong tục của người Thu Lao trước đây, lễ vật thách cưới bao gồm: 4
chiếc cúc áo bằng bạc, 4 vòng tay, 4 chiếc nhẫn bạc, 3 đồng bạc trắng, 80 kg lợn hơi, 80 lít rượu, 1 con trâu.
Lễ cưới chính thức thường được các gia đình tổ chức
vào khoảng thời gian từ tháng 9 - 11 âm lịch, sau khi mùa màng đã thu hoạch
xong. Gia đình nhà trai sẽ cử ông mối, cùng ông chú rể hoặc bà cô cùng một số
chàng trai bạn của chú rể khiêng lễ vật sang nhà gái để đón dâu. Ngoài những lễ
vật gia đình nhà gái thách cưới, gia đình nhà trai phải mang theo 22 chiếc bánh
dày để làm lễ xin mở cửa. Đến giờ hoàng đạo, phái đoàn nhà trai bắt đầu xuất
phát sang nhà gái đón dâu, đi đầu đoàn rước bao giờ cũng là ông mối, tiếp đó là
em chú dắt ngựa, rồi đến đoàn thanh niên khiêng lễ vật.
Theo phong tục của người Thu Lao, khi đi rước dâu bao
giờ gia đình cũng phải chuẩn bị trước một con ngựa tốt được trang trí lộng lẫy
bằng dải lụa hồng để rước cô dâu về, em của chú rể sẽ là người dắt ngựa đón chị
dâu, ngoài ra còn có một hai người cùng giúp đỡ cô dâu ngồi lên yên ngựa. Khi
đoàn đón dâu nhà trai đến cửa nhà gái, ông mối phải cất lời hát xin nhà gái mở
cửa cho vào nhà, nhà gái đứng bên trong hát vọng ra với những lời từ chối bông
đùa, khi thì không có chìa khoá, khi thì chìa khoá không vừa... Số lần từ chối
phải đủ 22 lần. Mỗi lần, ông mối phải đưa qua khe cửa 1 cái bánh dày. Sau khi
đưa cái cuối cùng, nhà gái mới mở cửa cho vào.
Sau khi vào nhà, nhà trai tiến hành giao đồ thách cưới
cho nhà gái, gia đình nhà gái sẽ cử một người là bà cô hoặc ông chú là người
kiểm kê số lễ vật nhà trai mang sang có đủ không. Sau đó họ đặt đồ lễ lên một
chiếc bàn để trong nhà, rồi gia chủ thắp hương báo cáo với tổ tiên là hôm nay
gia đình nhà trai đã mang lễ vật đến xin con gái của gia đình về làm dâu, mong
tổ tiên phù hộ cho chúng sau này có cuộc sống hạnh phúc. Trước khi về nhà
chồng, bố mẹ cô gái sẽ mang một chiếc ghế dài đặt ở gian giữa rồi mời những
người cao tuổi nhất trong nhà để hai vợ chồng lạy tạ ơn. Hai vợ chồng sẽ lạy tạ
ơn lần lượt từng người, sau đó họ mừng lại đôi vợ chồng mỗi người từ 10.000 -
50.000 đồng để chúc phúc cho hai vợ chồng. Còn bố mẹ cô dâu có của hồi môn cho
con gái mang theo cũng công bố trước mọi người và phái đoàn nhà trai biết.
Khi cô dâu bước ra khỏi cửa, gia đình nhà gái thường
mời một thầy mo đến làm lễ ra khỏi cửa với ý nghĩa gột rửa sạch sẽ những gì
không may mắn, không tốt của cô gái trước khi về nhà chồng, đồng thời cũng báo
cho tổ tiên biết là từ nay người con gái này không còn là thành viên của gia
đình nữa. Sau đó, cô gái được phái đoàn nhà trai đỡ lên ngựa thắng hồng, mặt
che kín bằng vải đỏ, đầu đội nón hoặc che ô theo đoàn rước về nhà chồng.
Khi về đến cửa nhà trai, cô gái được đỡ xuống ngựa,
sau đó gia đình nhà trai đã chuẩn bị sẵn một chiếc bàn đặt trước cửa, một chiếc
bừa hoặc cày đặt chắn ngang trước cửa ra vào với ý nghĩa là những thử thách đối
với người con gái trước khi bước vào nhà chồng mà cô phải vượt qua, đồng thời
còn mang ý nghĩa là vũ khí ngăn các loại tà ma, những gì không tốt
đẹp, không may mắn theo cô gái vào gia đình. Sau khi làm lễ cúng gia tiên xong,
chú rể, cô dâu phải thi nhau chạy thật nhanh để tranh phòng, với ý nghĩa người
nào vào phòng trước thì sau này người đó sẽ làm chủ gia đình. Lúc đó cô dâu mới
bỏ khăn che mặt rồi cùng chú rể đi lấy thóc hoặc cỏ để mang cho con ngựa ăn với
ý nghĩa cảm ơn con ngựa đã mang cô dâu về nhà, sau đó mọi người cùng ngồi vào
mâm ăn uống, chúc tụng vui vẻ suốt đêm, đến sáng hôm sau, phái đoàn rước dâu
mới ra về, đồng thời nhà trai cũng chuẩn bị lễ vật gồm: 1 đôi gà, 1 chai rượu
về nhà bố mẹ vợ làm lễ lại mặt.
Ngày nay, phong tục cưới xin của người Thu Lao đã có
nhiều thay đổi so với trước đây, các chàng trai, cô gái đã được tự do lựa chọn
lấy người bạn đời cho mình, một số nghi lễ cũng có nhiều thay đổi, thời gian tổ
chức lễ cưới được rút ngắn hơn trước, nhưng những nét văn hóa truyền thống
trong lễ cưới vẫn được các gia đình trân trọng, gìn giữ.
* Biên Khảo Huỳnh Tâm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét