Đồ xôi trong đám cưới của người Tày |
Đối với dân tộc Tày, chuyện trăm năm của đôi lứa thường
được các gia đình chọn để tổ chức trong dịp đầu xuân. Đây là một nét đẹp truyền
thống trong đời sống của người Tày Cao Bằng.
Người Tày được xem là những cư dân bản địa lâu đời nhất ở
Cao Bằng. Theo phong tục truyền thống, hôn nhân của người Tày thường do
cha mẹ sắp đặt. Ngày nay, nam nữ tự do tìm hiểu trước khi đi đến hôn nhân. Gia
đình người Tày theo chế độ gia đình hạt nhân, phụ hệ, một vợ một chồng.
Đám cưới truyền thống của người Tày được tiến hành qua các nghi thức: Lễ dạm,
lễ ăn hỏi, lễ sêu tết, lễ báo ngày cưới, lễ cưới, lễ đón dâu, đưa dâu…, thể hiện
bản sắc văn hoá của một tộc người. Lễ cưới được tổ chức trong hai ngày, nhà
gái tổ chức hôm trước, nhà trai tổ chức hôm sau. Theo phong tục, mọi chi
phí tổ chức đám cưới của nhà gái đều do nhà trai lo liệu, từ tiền mặt, lợn,
gà, gạo, rượu... dùng làm cỗ để mời họ hàng, làng xóm. Điều đó có ý nghĩa là
nhà trai tỏ lòng biết ơn, mong đền đáp phần nào công lao dưỡng dục của bố mẹ cô
gái. Cỗ cưới thường được tổ chức vào buổi chiều (tầm 4 - 5 giờ chiều), thông
thường, buổi chiều cỗ cưới dành cho người lớn tuổi, bậc cha chú, anh em họ
hàng. Buổi tối, bắt đầu vào khoảng 7 - 8 giờ tối gia đình sẽ tổ chức ăn uống
dành cho nam nữ thanh niên, bạn bè gần xa của cô dâu, chú rể. Ăn uống
xong, mọi người vẫn ở lại. Người lớn ngồi uống nước, hàn huyên với gia chủ;
thanh niên tổ chức trò vui “lày cỏ” thua thì uống rượu, nam nữ hát lượn với
nhau. Cuộc vui kéo dài thâu đêm, mờ sáng mới tan.
Đoàn nhà trai đi đón dâu gồm một quan lang, một pả
mẻ, chú rể, hai phù rể, một cô gái khoảng 15 - 16 tuổi chưa chồng và
đoàn nguời gánh lễ khoảng 8 - 10 người (gồm các chàng trai, cô gái còn trẻ chưa
lấy vợ, lấy chồng). Lễ vật nhà trai đem sang nhà gái để đón dâu, gồm: 100 chiếc
bánh chưng, 400 chiếc bánh dày nhỏ, 2 chiếc bánh dày to, một con lợn quay, một
đôi gà, rượu, trầu cau, một đôi cá nhỏ, một ống tiết, một đoạn lòng lợn, một
túi hạt giống (đỗ, thóc, vừng), một ít đường phên, một túi “cóoc mò” khâu bằng
vải đỏ, một miếng vải đỏ gọi là “rằm khấư” báo hiếu công nuôi dưỡng của cha, mẹ
Đến nhà gái, việc tiếp đón diễn ra tình cảm, ý nhị. Pả mẻ
nhà gái cất lời chào đón đoàn nhà trai, quan lang nhà trai thay mặt đáp lời. Để
thử thách tài đối đáp của quan lang nhà trai, pả mẻ nhà gái có thể căng dây, đặt
chổi, buộc con mèo trước cửa nhà... Quan lang nhà trai phải dùng những lời thơ
đối đáp, đề nghị một cách tế nhị, có lý có tình để nhà gái mở cửa cho nhà
trai vào đón dâu. Đoàn nhà trai vào nhà, nhà gái trân trọng đón lễ. Quan lang,
pả mẻ hướng dẫn chú rể dâng lễ lên bàn thờ; cô dâu chú rể cùng vái lạy tổ
tiên. Sau phần nghi lễ, chú rể dâng rượu mời ông bà, cha mẹ, anh em họ hàng. Mọi
người nhận rượu đều có những lời chúc mừng tốt đẹp. Sau đó, đoàn nhà trai dự bữa
cơm thân mật với nhà gái.
Đám cưới người Tày có rất nhiều món ăn khá đặc biệt, phản
ánh đời sống vật chất, tinh thần và tâm linh của cư dân bản địa, như: canh củ
đao, nộm hoa chuối rừng, canh hoa chuối, măng cuốn, măng nhồi, lợn quay…; đủ
các món biểu trưng cho âm dương ngũ hành và một phần không thể thiếu
trong cỗ cưới của đồng bào người Tày là rượu. Trong đời sống của người Tày
Cao Bằng, rượu là một nét văn hoá ẩm thực đặc sắc và gắn bó với cuộc sống của đồng
bào từ lâu đời.
Người con gái Tày đi lấy chồng mang theo nhiều của hồi
môn đựng trong chiếc hòm có chân bằng gỗ (rương gỗ). Phần lớn của hồi môn là vải
vóc, chăn màn, đồ trang sức. Ngoài ra cô dâu còn biếu bố mẹ chồng và anh em nhà
chồng chăn, màn, khăn rửa mặt, giày…, và một gánh lễ mang theo để dâng lên bàn
thờ nhà chồng. Sau khi hoàn tất các thủ tục báo cáo tổ tiên, mời rượu anh em họ
hàng, quan lang nhà trai xin phép đón cô dâu về nhà chồng. Tới nhà trai, cô
dâu, chú rể làm lễ báo cáo trước bàn thờ tổ tiên. Chú rể và cô dâu chắp tay
vái tổ tiên, uống chén rượu thề chung thuỷ trăm năm rồi được đưa đón vào buồng
hạnh phúc.
Thanh niên Tày lày cỏ trong đám cưới.
Cưới, hỏi là một phong tục truyền thống của dân tộc, là tổng
hòa các hình thức văn hóa, văn nghệ dân gian. Trong lễ cưới chứa đựng các giá
trị về vật chất cũng như tinh thần của mỗi dân tộc, từ những nét văn hóa ẩm thực,
các nghi lễ trong đám cưới đến trang phục truyền thống và các điệu hát quan
lang... Hôn nhân của dân tộc Tày không chỉ đơn thuần là việc kết duyên của đôi
lứa mà có ý nghĩa lớn hơn là truyền thống đạo lý của dân tộc, giáo dục về nghĩa
vợ chồng trong các mối quan hệ gia đình, dòng tộc,
Việt Hoàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét