Văn
hóa Việt Nam là sự tổng hòa các giá trị văn hóa của 54 dân tộc anh
em. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử với truyền thống đòan kết, cộng đồng các
dân tộc trong đại gia đình Việt Nam chúng ta luôn gắn bó với nhau trong suốt
quá trình đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ bờ cõi, giành tự do, độc lập
và xây dựng, phát triển đất nước.
Các dân tộc Tây Bắc
nói chung và đồng bào dân tộc Thái sinh sống trên địa bàn nói riêng là những
con dân Việt Nam cần cù chịu khó, gắn bó hoà đồng; là những con người vị tha,
yêu thương và đùm bọc nhau trong cuộc sống. Đó cũng chính là những phẩm chất của
người Việt Nam.
Dân tộc Thái là
một trong 54 dân tộc có mặt, sinh sống trên đất nước Việt Nam từ hơn 1000 năm
trước trong các cuộc thiên di trong lịch sử. Người Thái ở Việt Nam có số dân đứng
thứ 3 cả nước sau người Kinh và người Tày với số dân hơn 1,3 triệu người, chủ yếu
sống ở vùng núi phía Tây Bắc và các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An… qua quá trình lao đông,
sản xuất và sinh hoạt người Thái đã tạo nên được những nét văn hóa độc đáo và đặc
sắc cho dân tộc mình, với những nét đặc sắc về bản sắc văn hóa kiến trúc nhà ở,
trang phục thổ cẩm, văn hóa ẩm thực, phong tục tập quán riêng biệt, ngôn ngữ,
chữ viết…đã làm nên một nền văn hóa cho dân tộc Việt Nam thêm phong phú và đa dạng.
Là một người con dân
tộc Thái sinh và và lớn lên trên mảnh đất Điện Biên anh hùng, tôi thật sự rất tự
hào về chính nơi tôi được sinh ra, về bản sắc văn hóa, phong tục tập quán của
chính dân tộc mình.
Trong khuôn khổ bài
viết này, tôi sẽ chia sẻ đến các bạn về những gì tôi biết về phong tục, văn
hóa, cách sinh hoạt…của đồng bào Thái sinh sống trên địa bàn Tây Bắc nói chung
và Điện Biên nói riêng.
Ở điểm cực Tây của tổ
quốc, Điện Biên nằm ở nơi cao ráo, thoáng đãng, hội tụ sông, suối, núi đồi, những
cánh đồng lúa và phảng phất đâu đây là mùi hương hoa cỏ dại từ những cánh rừng
xanh bạt ngàn. Những ngôi nhà sàn thấp thoáng ven những bờ suối,còn ven bờ là
những chùm hoa dại, hoa ngũ sắc và những chùm hoa bay bay theo gió. Cảnh sắc
nơi đây thật sự rất tuyệt vời. Phải chăng không khí trong lành, dịu mát cùng với
cảnh sắc tuyệt vời như vậy cũng làm cho con người nơi đây trở nên phúc hậu?
Một góc đèo Pha Đin trên địa phận tỉnh Điện Biên
- Ảnh: Sưu tầm
Cánh đồng Mường Thanh - Ảnh: Sưu tầm
Cộng đồng tộc người
Thái ở nước ta bao gồm: Thái đen và Thái trắng. Tại Điện Biên có khoảng 186.270
đồng bào Thái đang sinh sống, chiếm 38,0% dân số toàn tỉnh và 12,0% tổng số người
Thái tại Việt Nam.
Đầu tiên tôi sẽ giới
thiệu về ngôn ngữ và chữ viết của người Thái nơi đây.
Ngôn ngữ: Người Thái nói các thứ tiếng thuộc hệ ngôn ngữ
Thái-Ka đai, trong nhóm này có tiếng Thái của người Thái (Thái Lan), tiếng Lào
của người Lào, tiếng Shan ở Myanma và tiếng Choang ở miền Nam Trung Quốc. Tại
Việt Nam, có 8 sắc tộc ít người gồm Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Tày,
Thái được xếp vào nhóm ngôn ngữ Thái.
Chữ viết: Người Thái là một trong số rất ít các dân tộc
thiểu số ở nước ta có chữ viết, có nguồn gốc từ vùng miền Nam Trung Quốc ngày
nay và nhiều nhà ngôn ngữ học đã đưa ra những bằng chứng về mối liên hệ với
các hệ ngôn ngữ Nam Á, Nam Đảo, hoặc Hán Tạng. Đây là một hệ thống
mẫu tự theo hệ Sanscit. Sự phối hợp thanh điệu, quy tắc chính tả phức tạp, các
chữ viết gần giống với chữ Lào, Thái Lan nhưng ngày nay đã bị mai một. Tuy chưa
xác định được cụ thể thời điểm xuất hiện nhưng hàng ngàn năm nay Ngôn ngữ và Bộ
chữ viết đã được người Thái ở Việt Nam, cũng như cộng đồng người Thái sống ở nước
ngoài sử dụng, giữ gìn và bảo tồn. Bộ chữ Thái là một công cụ để ghi nhận và phản
ánh đầy đủ, phong phú và tế nhị tư tưởng, tình cảm và tâm hồn trong sáng lành mạnh
của dân tộc Thái. Thể hiện trong văn hoá nghệ thuật thơ, ca, tục ngữ, truyện,
các phong tục tập quán.
Trong tiếng Thái,
ngôn ngữ hết sức đa dạng và phong phú, ngôn ngữ cũng bao gồm nhiều ngôi như
trong tiếng Việt và cũng khá phức tạp.Hiện nay việc đồng bào Thái nói và viết
chữ Thái đang dần mai một đi, rất nhiều bạn cùng trang lứa với tôi, là người
Thái nhưng không nói được tiếng Thái.Và hiện nay trong quá trình dạy con trẻ
các gia đình thường không dạy con bằng tiếng Thái nữa để rồi cứ thế mai một
dần sự giàu đẹp ngôn ngữ Thái. Về chữ viết, có lẽ ít ai là người Thái, mà có thể
viết được chữ Thái, có thể có nhiều lí do khác nhau, do học một ngôn ngữ chung
là Tiếng Việt nhưng lí do lớn nhất có lẽ là do các thế hệ sau không được truyền
dạy cũng như chưa có trường lớp để dạy.
Ngôn ngữ và chữ viết
là phương tiện để hình thành và lưu truyền các hình thái quan trọng nhất trong
đời sống văn hóa tinh thần của một dân tộc. Đồng thời, điều đó cũng góp phần bảo
tồn và phát triển sự đa dạng trong văn hóa Việt Nam. Chính vì thế, riêng đối với
ý kiến bản thân tôi, việc đưa ngôn ngữ vào trong giáo dục đối với các em học
sinh dân tộc thiểu số là một điều hết sức hữu ích, quan trọng góp phần giữ gìn
bảo tồn ngôn ngữ và chữ viết cho các thế hệ sau.
Không chỉ có ngôn ngữ chữ viết vô cùng đa dạng,
người Thái tại Điện Biên còn có những nét đặc trưng trong ẩm thực.
Một trong những đặc
trưng nổi bật của dân tộc Thái là ẩm thực. Đối
với người Thái, ẩm thực đã trở thành một nét văn hóa cổ truyền sâu sắc. Món ăn
của dân tộc Thái thể hiện sự kết hợp hài hòa của sông, của rừng, của những tấm
lòng chân quê giản dị. Chúng có một đặc trưng dễ nhận biết, đó là sự phân thực
rất rõ ràng, là sự gia công đúng mực về kỹ thuật và nghệ thuật. Dân tộc Thái ưa
cái hương vị đậm đà, giàu chất dinh dưỡng nhất là các món nướng. Độ đậm đà của
hương vị các món ăn cũng đạt đến mức đỉnh điểm: cay thì thật là cay, ngọt thì
thật ngọt mà chát thì không gì chát bằng. Món thịt trâu hoặc bò, cá, gà nướng
được người Thái tẩm, ướp gia vị rất cầu kỳ. Gia vị để ướp là hạt tiêu rừng hay
còn gọi là hạt “mắc khén”, ớt, tỏi, gừng, muối... Trước khi đem ướp với thịt,
các gia vị cũng được nướng lên cho chín, hương thơm.
Để nói đến những
món ăn truyền thống của người dân tộc Thái thì có lẽ trong khuôn khổ bài viết
này tôi sẽ không nói được hết. Tôi sẽ giới thiệu đến các bạn những món ăn quen
thuộc nhất trong sinh hoạt của chính gia đình tôi cũng như cac gia đình khác tại
Điện Biên nói chung. Có những món ăn đặc trưng như: Cơm lam, xôi nếp. Xôi
nếp là món ăn truyền thống của dân tộc Thái. Người Thái có phương pháp xôi cách
thuỷ bằng chõ gỗ rất kỹ thuật. Xôi chín bằng hơi, mềm, dẻo nhưng không dính
tay. Xôi được đựng vào ép khẩu hoặc giỏ cơm đậy kín, ủ ấm, giữ cho cơm dẻo lâu.
Để nấu được xôi ngon và dẻo người Thái chọn những loại gạo nếp nương với hạt gạo
trắng trong, to, tròn. Có lẽ người Thái sống hòa mình với thiên nhiên bởi vậy
những món ăn của người Thái luôn có nguồn nguyên liệu đơn giản từ chính cuộc sống
xung quanh. Xôi của người Thái không chỉ đơn giản là có xôi màu trắng mà chúng
ta có thể thấy xôi ngũ sắc, xôi có 5 màu: Trắng nguyên thuỷ của gạo nếp và các
màu vàng, xanh, đỏ, tím. Các màu này tượng trưng cho: Sức khoẻ, tiền tài, hạnh
phúc, môi trường sống, sự thuỷ chung. Mâm xôi ngũ sắc thường được bày ở trung
tâm mâm cỗ. Các nắm xôi được bày bên nhau theo kiểu quần tụ hoặc xếp thành núi,
xếp thành 5 cánh hoa ban bày trên lá cây (trước đây) hoặc kết đĩa vòng tròn
(bây giờ). Để làm nên những màu sắc đẹp như vậy thì nguồn nguyên liệu từ từ
các lá cây rừng. Với màu sắc và mùi hương của các loại lá cây rừng đã làm nên một
món xôi riêng biệt của đồng bào Thái. Cũng với nguyên liệu chính là gạo nếp,
người Thái có thể làm món cơm lam.Cơm lam là một món ăn giản dị, độc đáo
và luôn tạo được sự bất ngờ cho người ăn đó là một món ăn của núi rừng, cơm có
màu xanh nhẹ được nướng trong ống tre, ống nứa chặt trên rừng về. Món cơm tưởng
chừng rất đơn giản trong nguyên liệu và cách làm nhưng ngược lại lại là cả một
nghệ thuật, một ý tưởng của người vùng cao về sự hòa quyện giữa nước, lửa và những
ống tre, nứa. Cách làm cơm lam rất dễ nhưng cũng đòi hỏi sự khéo léo của người
thực hiện.
Mùa nào thức nấy người
Thái luôn tự túc và dựa vào tự nhiên như món măng đắng, măng ngọt; rau cải
ngồng, rau dớn... chấm với gia vị chéo, đậm đà vị cay của ớt, riềng,
mặn của muối rang, hương thơm của rau. Họ ưu thức ăn có các vị cay, đắng, chát,
bùi ít dùng các món ngọt lợ, đậm nồng..
Người Thái rất thích
uống rượu. Đối với họ uống rựơu là phong tục cho nên họ tự chế biến lấy để tiêu
thụ. Rượu của người Thái có ba loại chính: Lảu xiêu (cất hay trắng), Lảu xả (Rượu
cần), Lảu vang (rượu nếp cái). Người Thái xem rượu là cái cớ để cởi mở niềm
vui, sự hân hoan mang tính văn hóa lành mạnh, không bê tha. Với người Thái, rượu
cần là thức men thú vị mỗi khi có đình đám. Sinh hoạt ẩm thực của người Thái có
cung cách giờ giấc nhất định. "Kín lảu mi ngan, đa pan mi pựa", tức
là ăn có bữa, rượu có giờ.
Người Thái hút thuốc
lào bằng ống điếu tre, nứa và châm lử bằng mảnh đóm tre ngâm, khô nỏ.
Về văn hóa ẩm thực của
người Thái thật sự vô cùng phong phú, người Thái có rất nhiều món ăn ngon và đậm
chất riêng mà không một dân tộc nào có. Điều đó khiến những người con dân tộc
xa quê như tôi luôn một lòng hướng về mảnh đất mình đã sinh ra và lớn lên, luôn
nhớ những món ăn mà người mẹ, người bà vẫn hay nấu cho các con, các cháu. Cùng
với sự phát triển đi lên của xã hội thì văn hóa ẩm thực của đồng bào ở đây cũng
có sự thay đổi, tuy nhiên vẫn giữ được những nét truyền thống của dân tộc. Người
Thái với lòng hiếu khác và chân thành. Khi nhà có khách, họ sẽ tiếp đãi khách bằng
những chén rượu nồng chất chứa nhiều tình cảm và những món ăn ngon nhất của
chính nhà mình.
Cơm Lam
Xôi ngũ sắc
Rau dớn xào – Một đặc sản Tây Bắc
Về phong tục – tập quán, tiêu biểu là
tục cưới hỏi và ma chay:
Cưới hỏi: Gia đình người Thái theo gia đình phụ hệ,
nhưng trước kia người Thái có tục ở rể nên lấy vợ lấy chồng phải qua nhiều bước,trong
đó có 2 bước cơ bản:
Cưới lên (đong hưn): đưa rể đến cư trú nhà vợ là bước thử thách
phẩm giá, lao động của chàng rể. người Thái đen có tục búi tóc ngược lên đỉnh đầu
(tẳng cau) cho người vợ sau lễ cưới này. Tục ở rể từ 8 đến 12 năm, sau đó thời
gian ít dần còn vài ba năm khi đó đôi vợ chồng đã có con mới về ở bên nhà chồng,
bây giờ vẫn còn giữ tục lệ nhưng khá ít, chỉ khi trường hợp gia đình bên gái
khó khăn thì sẽ ở rể, quá trình sau này gọi là cưới xuống
Cưới xuống (đong lông) đưa gia đình trở
về với họ cha
Ngoài cưới hỏi theo
truyền thống thì người Thái còn có tục “Trộm vợ”, khi đôi trai gái yêu nhau, muốn
lấy nhau nhưng điều kiện không cho phép thì người con trai sẽ trộm cô gái về để
tránh khỏi nhiều hủ tục rườm rà, tốn kém khi hỏi cưới. (chàng trai đến nhà cô
gái trộm về trong đêm và đặt một chai rượu, trầu cau lại nhà cô gái để sáng ra
bố mẹ biết là con gái đã bị trộm vợ, nhà trai sẽ đem lễ vật đến chịu thú và xin
cưới ngay. Ngày nay một số người lợi dụng phong tục này để “bắt vợ” mặc dù
không yêu nhau, làm biến tướng và mất đi cái hay của bản sắc dân tộc và phải chịu
sự trừng phạt của pháp luật nhà nước).
Đó là lễ cưới truyền thống của dân tộc Thái. tuy
nhiên, cuộc sống ngày càng hiện đại và trở nên hội nhập chính vì vậy mà các thủ
tục rườm rà và không cần thiết gần như đã được xóa bỏ. tuy nhiên, vẫn giữ được
những nét truyền thống như người con gái khi lấy chồng phải “tẳng cẩu”, nghĩa
là phải búi tóc trên đầu, đối với người Thái đen là vậy, trong ngày cưới người
con gái mặc trang phục truyền thống của dân tộc.
Ma chay: của người thái tương đối phức tạp.
Đối với người chết, người Thái quan niệm chết là
tiếp tục “sống” ở thế giới bên kia vì vậy đám ma là lễ tiễn người chết về với
“mường trời”. Đám tang thường có nhiều lần cúng viếng để linh hồn được lên với
mường trời.
Lễ tang có 2 bước cơ
bản la pông và Xống. Pông có nghĩa là phúng viếng tiễn
đưa hồn người chết lên cõi hư vô, đưa thi thể ra rừng chôn (Thái trắng), thiêu
(Thái đen).Xống là đưa đồ tang lễ ra bãi tha ma và kết
thúc bẵng lễ gọi ma trở về ngụ tại gian thờ cúng tổ tiên ở trong nhà.
Người Thái Điện Biên
cũng như các vùng miền khác có quan niệm đa thần và giữ tục cúng tổ tiên. Do đời
sống gắn liền với sản xuất nông nghiệp nên có tục lấy nước đêm Giao Thừa, lễ hội
đón tiếng sấm năm mới và một số lễ hội cầu mùa khác, các lễ hội xăng khan, xến
bản, xến mường, lễ hội hạn khuống, lễ hội mừng lúa mới là những lễ hội đặc
trưng của dân tộc.
Người
Thái đón tết Nguyên Đán rất cầu kỳ và chu đáo, mọi sự
chuẩn bị cho ngày tết được bắt đầu từ nửa tháng trước đó, sau đó là các giai đoạn
23 tháng chạp đón tết ông công ông táo như người Việt, 28 rửa lá rong, 28 gói
bánh chưng, 29 nấu bánh chưng, 30 tết đón giao thừa cúng tổ tiên mừng năm mới
và đi lấy nước lộc đầu năm. Sang mồng một tết thờ cúng tổ tiên, cúng thần đất,
thần núi, thần nước, thần bếp xong xuôi tất cả thì chọn người xông đất như người
Việt. Ngày Tết đến ngày thứ 7 thì làm lễ khai hạ, lúc đó mọi người mới đi ra đồng
làm việc, khoảng thời gian này cũng có rất nhiều hoạt động vui chơi như ném
còn, nhảy sạp, hội thi bắn nỏ, chơi quay và mạc lẹ, vũ
hội rượu cần với các điệu xòe, điệu múa lăm vông quanh chum rượu cần.
Thiếu nữ Thái với lễ hội Ném còn
Còn về kiến
kiến trúc nhà ở, đồng bào Thái nơi đây chủ yếu sinh sống trong những
ngôi nhà sàn đầm ấm tình yêu thương giữa các thế hệ.
Điểm khác biệt nhất của nhà cửa người Thái so với
người Việt là họ xây nhà sàn. Nhà người Thái trắng có khá nhiều điểm gần với
nhà Tày-Nùng. Còn nhà người Thái Đen lại gần với kiểu nhà của các cư dân
Môn-Khmer. Tuy vậy, nhà người Thái Đen lại có những đặc trưng không có ở nhà của
cư dân Môn-Khme. nhà người Thái có nhiều dáng vẻ khác nhau, nhà mái tròn nóc
khum hình mai rùa, “chỏm đầu đốc” có “khau cút” với nhiều kiểu
khác nhau. Nhà bốn mái mặt bằng sàn hình chữ nhật gần vuông, hiên có lan can,
nhà sàn dài, cao, mỗi gian hồi làm tiền sảnh. Hai gian hồi để trống và
có lan can bao quanh. Khung cửa ra vào và cửa sổ có nhiều hình thức trang
trí khác nhau. Vách tường thường được đan bằng tre, nứa tạo thành các phên và
ván gỗ làm tường nhà, nền sàn cũng được dùng từ cây tre, mét. Mái nhà được lợp
bằng lá tranh, lá cọ. nhưng ngày nay thường chuyển sang lợp ngói.
Bộ khung nhà Thái có
hai kiểu cơ bản là khứ kháng và khay điêng. khứ
kháng được mở rộng bằng cách thêm hai cột nữa so với khay điêng.
Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt của nhà Thái
Đen khá độc đáo: các gian đều có tên riêng. Trên mặt sàn được chia thành hai phần:
một phần dành làm nơi ngủ của các thành viên trong gia đình, một nửa dành cho bếp
và còn là nơi để tiếp khách nam.
Mừng nhà mới: dẫn
chủ nhân lên nhận nhà Lung tá (thông gia) châm lửa đốt củi ở
bếp mới. Một nhà người Thái xưa thường có 2 bếp, một bếp để tiếp khách, sưởi ấm.
một bếp khác dùng để nấu ăn, người ta thực hiện tại nghi lễ, cúng đọc bài mo
xua đuổi tà ác, thu điều lành, cúng tổ tiên, vui chơi uống rượu cần.
Hiện nay những mái
nhà sàn đã cách điệu với những kiểu kiến trúc hiện đại hơn. Tuy nhiên nét truyền
thuyền thống vẫn được thể hiện ở những ngôi nhà sàn hiện đại.
Nhà sàn truyền thốn của dân tộc Thái Tây Bắc
Trong văn hóa của
người Thái Điện Biên, văn học dân gian và âm
nhạc khá đa dạng và đặc sắc cho và rất riêng của dân tộc.
Văn học dân gian: Thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện
thơ, ca dao... là những vốn quý báu của văn học cổ truyền người Thái. Những tác
phẩm thơ ca nổi tiếng của dân tộc Thái là: Xống chụ xôn xao, Khun
Lú Nàng Ủa. Người Thái sớm có chữ viết nên nhiều vốn cổ (văn học, luật lệ,
dân ca) được ghi chép lại trên giấy bản và lá cây.
Âm nhạc: Với nhiều loại hình nhạc cụ như: Khèn, Sáo,
Cồng Chiêng và Khắc Luông. Múa (xẽ, xoè) với hai cấp độ là: Múa tập thể dân dã
và múa biểu diễn hay múa phong cách. Người Thái rất thích ca hát, đặc biệt
là khăp tay. “Khắp” là lối ngâm thơ hoặc hát theo lời thơ, có thể
đệm đàn và múa. Nhiều điệu múa như lăm vông đặc sắc nhưng đơn giản ai cũng có
thể hòa vào điệu múa này, loại hình múa xòe, múa sạp đã được trình diễn trên
sân khấu trong và ngoài nước, hấp dẫn đông đảo khán giả. Hạn khuống, ném còn là
hai đặc trưng văn hóa nổi tiếng của người Thái. Ngoài ra còn có điệu suối,
nhuôn ( lối hát đối đáp giao duyên) thường hát lên trong lúc sản xuất cũng in
sâu trong bản sắc của văn hóa dân tộc.
Và tiêu biểu của
một dân tộc được thể hiện ở trang phục.Các nhóm người Thái
như Thái Đen, Thái Trắng đều có nhiều điểm chung trong trang phục hằng ngày
nhưng trong đó, vẫn nổi bật bản sắc riêng.
Một bộ trang phục
truyền thống phụ nữ Thái gồm: áo ngắn (xửa cỏm), áo dài (xửa chái và xửa luổng)
được đính hàng khuy bạc hình bướm, nhện, ve sầu… chạy trên đường nẹp xẻ ngực,
bó sát thân, ăn nhịp với váy (xỉn) màu thẩm hình ống, Phụ nữ Thái mặc váy hai lớp:
váy trắng lót bên trong và và váy chàm mặc ngoài, thắt lưng (xải cỏm) bằng dải
lụa màu xanh lá hoặc tím xẫm, giữ cho cạp váy quấn chặt lấy eo bụng, kết hợp với
khăn (piêu) cuốn đầu, đội nón (cúp), các loại hoa tai, vòng cổ, vòng tay và xà
tích bạc đeo ở bên hông. Áo ngắn có thể may bằng nhiều loại vải với màu sắc khác
nhau. Váy thì được dệt và thêu với nhiều họa tiết như long, phượng, mặt trời…
Sự khác biệt giữa nữ giới của dân tộc Thái Đen và
Thái Trắng được thể hiện trong các dịp hội hè. Những dịp đó, phụ nữ Thái Trắng
thường mặc áo dài màu đen. Đây là loại áo dài thụng thân thẳng, không lượn
nách, được trang trí bằng vải “khít” ở giữa thân có tua vải phủ từ vai xuống ngực,
nách áo trang trí theo lối đáp hai mảng hoa văn trong bố cục hình tam giác. Phụ
nữ chưa chồng búi tóc sau gáy, có chồng búi trên đỉnh đầu. Họ có loại nón rộng
vành. Trong khi đó, phụ nữa Thái Đen thường mặc áo dài xẻ nách, chui đầu, trang
trí phong phú đa dạng về màu và màu mà mô-típ hơn Thái trắng.
So với trang phục
nữ, trang phục nam người Thái đơn giản và ít chứa đựng sắc thái tộc người và
cũng biến đổi nhanh hơn. Trang phục nam giới gồm: áo, quần, thắt lưng và các loại
khăn. Nam thường mặc quần cắt theo kiểu chân què có cạp để thắt lung, màu quần
áo phổ biến là màu đen, có thể là màu gạch non, hoa kẻ sọc hoặc trắng.
Áo nam giới có
hai loại, áo cánh ngắn và áo dài. Áo ngắn may bằng vải chàm, kiểu xẻ ngực, tay
dài hoặc ngắn, cổ tròn. Khuy áo làm bằng đồng hay tết thành nút vải. Áo không
có trang trí hoa văn chỉ trong dịp trang trọng người ta mới thấy nam giới Thái
mặc tấm áo cánh ngắn mới, lấp ló đôi quả chì (mak may) ở đầu đường xẻ tà hai
bên hông áo...
Trang phục dân tộc của con gái Thái đen ở Tây bắc
Ngày nay hoạt động sản
xuất của người Thái cũng đã được giao thoa, học hỏi người kinh, xuất hiện thêm
nhiều ngành mới trong hoạt động sản xuất, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất để đảm bảo sự phát triển bền vũng của dân tộc, kể cả hoạt động dịch vụ.
người dân đã đưa khoa học kỹ thuật vào canh tác sản xuất nhưng vẫn còn hạn chế.
Ruộng bậc thang trên cao nguyên Sín Chải – Tủa Chùa – Điện Biên
Trong tổ chức xã hội,
người Thái cũng rất đoàn kết. Cơ cấu xã hội cổ truyền được gọi là bản, mường hay theo chế độ
phỉa tạo. tong tộc Thái gọi là Đẳm. mỗi người có 3 quan hệ
dòng họ trọng yếu: Ai Nọong ( anh em; tất cả các thành viên
nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung tá (thông gia: tất
cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ), Nhinh xao (tất
cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể).
Bản mường Thái thường định cư gần nguồn nước, mỗi
bản có từ vài chục đến hơn trăm nóc nhà kề bên nhau, có già làng, trưởng bản
cai quản bản mường. Người Thái ở nhà sàn thường ở chân đồi núi, trong thung
lũng nhưng dần dần cũng đã chuyển ra gần đường chính và dần thay nhà sàn bằng
nhà trệt như người miền xuôi.
Phương tiện vận chuyển: Ngày xưa, người Thái thường
đi bộ, vận chuyển gánh là chủ yếu, ngoài ra, gùi theo kiểu chằng dây đeo sau
lung, dùng ngựa cưỡi, thồ. Trên các con sông thì di chuyển bằng bè. Nay đã có
các phương tiện hiện đai như xe gắn máy để đi lại, xe bò, xe tải để chở vật dụng,
hàng hóa.
Đàm Minh Phiếu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét